Lời Thuyết Ðạo Của Ðức Hộ Pháp - Toàn Tập 5


Q. 1/52: Giảng hai câu kinh trong Bài Kinh Ðại Tường.
Ðền Thánh, đêm 22 tháng chạp năm Ðinh Hợi (1948)

Giảng hai câu kinh trong Bài Kinh Ðại Tường:
"Thâu các Ðạo hữu hình làm một,
Trường thi Tiên Phật dượt kiếp khiên."

Lời hứa đặc sắc của Chí Tôn
nó sản phát ra hình dạng của nó, nếu chẳng vậy thì Ðạo Cao Ðài không ý vị gì cả. Tại sao Chí Tôn quyết định thâu các Ðạo hữu hình làm một? Chẳng lạ chi, xác thịt chỉ chia phân tâm lý vạn loại mà thôi, nguyên do ấy vô đối, và hại ấy vô trị. Ông Descartes đã nói: Tư tưởng tức nhiên thâu đến mối huyền vi dưới thế nầy, con người tạo thời cải thế trước nhứt phải suy đoán, có suy đoán mới hiểu phát hình. Một khi suy đoán định chí hướng đến đâu, thâu đến hành tàng nào, không một sự vật gì mà người không tính trước. Các bậc vĩ nhân cố tâm cần cù học đặng quyết định vận mạng trị dân an bang tế thế. Học đặng suy đoán về tình thế tâm lý của đời. Ví dụ: Như người ăn trộm không phải khi không mà phát hiện tâm lý ấy. Nó có tính trước rồi mới làm. Sau cái hành tàng thi thố tức chúng ta đã quyết đem tâm lý để trước. Hại thay! Thế gian, nói chung tâm lý của loài người, đắc triết lý chơn thật thì ít mà trí chí con người không thế đi con đường nào khác hơn sở hướng của mình.

Các vị Giáo Chủ đã tìm tàng đi cho đến con đường ngay chánh. Mấy vị Giáo Chủ đi quá sức tưởng tượng, lập một khuôn khổ không ai theo đặng, nên trong sự khó tránh đặng mưu người tìm phương đánh đổ, tìm phương sửa cải. Nếu có nền Tôn Giáo nào ở thế gian nầy bị tâm lý nhơn sanh đánh đổ phải biến thành Tà giáo, tức nhiên là phương phân chia tâm lý, nhiều phe, nhiều phái mới nhiều tâm lý tương đương thì chúng ta thấy giặc giã chiến tranh vì đó mà khởi hấn, toàn địa cầu tàn sát tự diệt lẫn nhau bốc khởi. Hại thay! Sự tàn sát mạng sống của cá nhân là diệt bửu vô giá của đời. Chí Tôn là Cha mạng sanh ấy đối với Ngài giá trị thế nào không cần luận giải, Ngài là Cha Thiêng Liêng, ta không thể nói cha mẹ ta tại thế nầy, sánh với Chí Tôn thế nào cho đặng.

Ðau đớn biết bao nhiêu! Nhơn loại không biết nhìn nhau đồng căn bản, đồng cốt nhục và tương tàn với nhau, biểu Chí Tôn khoanh tay ngồi ngó cho đặng, nên Người sai người thừa mạng lịnh của Ngài đến qui con cái của Ngài làm một, đặng tránh nạn tương tàn tương sát, bảo trọng sanh mạng cho nhau.

Ðáng lẽ Ngài phải đến, bắt buộc phải đến, nhưng đến chẳng được, nên con thương yêu của Ngài đến thế cho Ngài đặng làm trọn vẹn phận sự của Ngài. Nếu đến chẳng đủ diệu huyền ắt vô giá trị và sở hành sẽ vô hiệu lực.
Q. 1/53: Lễ Bãi Trường tại Ðạo Ðức Học Ðường.
Ngày 22 tháng chạp năm Ðinh Hợi (1948)

Mấy vị Giáo Viên nhứt là Lương, mỗi phen có lễ nơi Học Ðường, mỗi phen đến dự, nó làm cho Bần Ðạo cảm xúc, đến hễ thấy đám nhỏ trước mắt rồi thấy tình cảnh khổ não đương thời, tấn tuồng khổ sở ấy nó phô diễn cùng các sắc dân và cả toàn quốc của chúng ta. Ngày nay Ðạo Ðức Học Ðường biết đảm nhiệm thì Thầy biết giá trị của mấy con chịu khổ não nhọc nhằn dường nào! Hiện chúng ta có ba mặt trận Ðạo:

Thứ nhứt: Mặt trận hình thức là để chiến đấu quân tàn bạo sát hại nòi giống quốc dân ta, có chiến tướng binh sĩ dưới cây cờ Nhơn Nghĩa của Ðạo binh Cao Ðài về phần xác, phần hữu hình ta thấy để bảo tính Ðạo Giáo, để bảo thủ thân sống con người.

Mặt trận thứ nhì: Ðể chiến đấu về tinh thần trí thức mấy con là chiến tướng, thắng tới, tiến tới và cố gắng hy sinh thắng đặng trận cũng như mặt trận thứ ba: Thánh Thể của Ðức Chí Tôn tức là Chức Sắc Thiên Phong đã làm chiến tướng thắng cả tâm hồn, bảo thủ nền Quốc Ðạo từ mảy mún và tô điểm thêm xinh, không có lực lượng nào đến phá hoại nó đặng.

Ba mặt trận ấy thấy hiển nhiên trước mắt, cả tương lai rực rỡ sẽ có lời hứa hẹn tốt đẹp, trước qua sau tới, giữ nền Quốc Ðạo, nếu mấy em, mấy con không bảo thủ vững vàng thì sẽ bị phản động lực ngoại xâm húng hiếp, cái tương lai ấy trong tay các em, các con, Thầy có lời yếu thiết gởi gấm cả tương lai rực rỡ đó cho mấy em mấy con, nghe à.

Q. 1/54: Lòng thương của Phật Mẫu.
Tòa Thánh, đêm 24 tháng chạp năm Ðinh Hợi (1948)

Phàm như hễ làm nghề nào, nghề nữ hay nghề nam cũng vậy, nghề nghiệp muốn được sở trường, hay chưa biết chắc làm đặng thường phải kiếm nhà nghề, nhờ chỉ biểu thì mới làm đặng.

Mấy chị, mấy em đã thấy tấn tuồng thiên hạ tàn sát tiêu diệt lẫn nhau quá lẽ. Phụ nữ vạn quốc hiệp chủng phản kháng sự chiến tranh và nhứt định không cho đem con cái của họ ra làm bia cho súng đạn.

Tưởng các chị, em biết mình là nhơn viên cơ Tạo đoan nhứt là Phật Mẫu là nhà nghề Tạo đoan. Mỗi cái gì mình làm được dầu nó là vật vô tri vô giác, nếu có ai đập bể hoặc làm hư hao mình còn giận, còn đau đớn thay, huống chi với tình mẹ con biết bao nhiêu giá trị! Không ai có quyền nào giết một đứa con của người mẹ, cũng như Phật Mẫu hiện giờ nầy, trên Ngọc Hư Cung có lẽ Phật Mẫu phản kháng cái nạn tiêu diệt nhơn loại mãnh liệt hơn Bần Ðạo tưởng tượng nữa mà chớ. Ở dưới thế, đương thấy cái tình cảnh trước mắt, các chị em phải làm chứng cớ cho Phật Mẫu nạp cả hồ sơ cho Phật Mẫu, để phản kháng cơ tự diệt thiêng liêng trong bảy ngày làm cho thiên hạ đem cả thống khổ, đau đớn của các bà Mẹ đưa trong tay cho Bà Mẹ linh hồn là Phật Mẫu, để Ngài đủ quyền năng phản kháng giữa Ngọc Hư Cung, hầu giảm bớt cái nạn chiến tranh tàn khốc. Làm được không? Có lẽ cả thảy đều làm được chớ.
Q. 1/55: Lễ Ðưa Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật triều thiên.
Ðền Thánh, đêm 24 tháng chạp năm Ðinh Hợi (1948)

Thỏn mỏn mà ngày nay là ngày 23 tháng Chạp năm Ðinh Hợi, đây tính lại từ ngày Bần Ðạo về nước đến nay được 17 tháng, được ăn hai cái Tết của quê hương sau 5 năm bị đồ lưu nơi hải ngoại.

Bần Ðạo đã ngó thấy toàn Thánh Thể của Ðức Chí Tôn nam nữ cũng thế, từ nhỏ tới lớn, đã trụ cả đức tin, làm cho Thánh Thể của Ðức Chí Tôn ngày càng thêm đẹp đẽ. Riêng về Bần Ðạo để lời nói cùng toàn cả Chức Sắc Thiên Phong, Bần Ðạo xin để lời cám ơn các cơ quan đương nhiên trong nền Chánh Trị Ðạo, đã giúp hay cho Ðạo trong thời gian ngắn ngủi, đã phục hồi được cái khuôn khổ chơn truyền. Tưởng thật ra từ 17 tháng nay, Hội Thánh làm việc nhiều lắm, cả con cái của Chí Tôn hao biết bao nhiêu tâm não, thi hài, để tô điểm nền chơn giáo Chí Tôn thêm cao trọng, Bần Ðạo xin cúi đầu để lời cám ơn toàn cả con cái Ðức Chí Tôn.

Luôn dịp Bần Ðạo cầu chúc tân niên nầy, cả con cái của Chí Tôn nam nữ, Thánh Thể của Người được tráng kiện tinh thần và hình thể, hưởng được hạnh phúc đặc biệt của Chí Tôn chan rưới và lướt qua hồi khảo đảo truân chuyên, có lẽ buổi hạnh phúc an ninh của cả quốc dân chỉ sẽ đến trong chốc lát đây mà thôi, vì dân tộc Việt Nam phải còn truân chuyên nhiều nữa.

Bảy ngày nghỉ cúng, chúng ta thành tâm cầu nguyện Chí Tôn cùng Thần, Thánh, Tiên, Phật. Bần Ðạo quả quyết trong năm nầy, nếu như tinh thần Bần Ðạo không lầm, thì nòi giống Việt Nam chúng ta sẽ được đặc ân là độc lập tự do cho tổ quốc, độc lập trên pháp lý quốc tế đó vậy. Nhưng muốn cho thực hiện được thực tế, có lẽ cuộc tranh đấu của dân tộc Việt Nam còn dài.

Luôn dịp Bần Ðạo giải nghĩa tại sao phong tục nhà Nam gọi theo Ðạo Phật là đưa Ông Táo về Trời, chớ thật sự là đưa chư Thần, Thánh, Tiên, Phật về triều thiên, tinh thần từ trước vẫn vậy.

Chơn truyền buổi Ðức Chí Tôn tạo Càn Khôn Thế Giái, Ngài nắm Thập Thiên Can, Thập Nhị Ðịa Chi trong tay, để định Pháp Chánh Càn khôn Vũ trụ. Trong thời buổi định Pháp Chánh ấn định vào khoảng từ ngày 23 đến 30 sáng mồng 1, họp tại Ngọc Hư Cung đặng định luật giới hạn vi diệu cho trái địa cầu, chạy theo khuôn khổ hữu định trong năm cho chí Tân niên là 12 giờ đêm 30, khởi điểm 1 giờ sáng ngày 1 tháng Giêng năm sau.

Luật Thiên Ðiều trị thế, trị nơi địa cầu nầy là hình luật thiêng liêng là ngày giờ nầy nơi Ngọc Hư Cung kiểm soát định tội phước đó vậy. Càn Khôn Vũ Trụ, đều có Ðại Hội lập Luật, trong một năm giáp vòng bửu giới. Nếu trái địa cầu nào chưa được êm đềm, luật Thiên Ðiều thay đổi khác mỗi năm, chiếu theo tấn hóa và tâm lý của nhơn sanh. Nơi Ngọc Hư Cung định Pháp Chánh cũng như trong Càn Khôn Vũ Trụ là: 12 tháng một niên, 12 niên một giáp, 120 năm một thế kỷ (tất cả đều cho rằng 100 năm là một thế kỷ, như vậy không đúng), 1.200 năm là một giáp, 12.000 năm là một ngươn, 36.000 năm là một chuyển. Mỗi phen đáo đến sở hành ngày giờ ấy, có Hội Giác Tiên là thường tại, từ thử đến giờ chúng ta chưa nghe nói, vì 1.200 năm có một vị Giáo Chủ giáng thế chỉnh Ðạo, bảo thủ tinh thần đạo đức của loài người. Cứ độ 1.200 năm có xuất hiện một nền Tôn Giáo để hóa chuyển thay đời, tính lại địa cầu chúng ta từ buổi phôi thai, có vạn linh nơi mặt thế đến nay được ba chuyển. Nay qua Hạ Ngươn Tam Chuyển, khởi đầu Thượng Ngươn Tứ Chuyển chẳng khác gì đêm 30 sáng mùng 1 Tết của chúng ta vậy.

Tới mức giữa không gian thì nhơn loại tới hồi khổ não đủ điều, người ta nói là tận thế, cái thuyết ấy không có đâu, nếu chúng ta dùng lời đặng nói chẳng qua là một giáp đó thôi, tức nhiên là một nền văn minh Tôn Giáo chớ không phải tận thế.

Kiếp số địa cầu nầy còn vĩnh cửu, chỉ thay đổi hình thể, vạn loại mà thôi, nó vẫn còn tăng tiến mãi. Chúng ta đã ngó thấy qua chừng một trăm năm trước, văn minh con người không đạt đến mức hiện tượng như bây giờ. Cơ tấn bộ tinh thần vật chất dữ dội nhất là trong vòng 50 năm sau. Theo đó mà tính toàn lại coi, trong 500 năm nữa, nhơn loại sẽ ra sao?

Phật Giáo nói: Qua sắc dân da trắng, tinh thần vi chủ tới sắc dân Thần Thông Nhơn, qua khỏi dân Thần Thông, thì có sắc dân Chí Linh, lúc đó người là Thần, Thánh, Tiên, Phật tại thế. Như vậy còn hai sắc dân nữa cho 500 năm sau.

Mỗi sắc dân vi chủ một ngươn niên, kể hai sắc dân nữa chưa xuất hiện, ta cũng kể là 30.000 năm nữa đời sẽ thay đổi khác hơn. Nhơn vật và địa cầu cứ tăng tiến mãi, trên con đường tận thiện mỹ, vật xinh, người đẹp, vật bỏ ngu đến khôn, người khôn đến Chí Linh, đến ngày cùng chót toàn là Thần, Thánh, Tiên, Phật xuống ở cõi trần nầy. Lời Chí Tôn tiên tri và quyết định hẳn hòi:
"Chừng nào đất dậy Trời thay xác,
Chư Phật, Thánh, Tiên xuống ở trần".

Ta lấy lớn suy nhỏ, lấy nhỏ so lớn, Càn khôn tấn triển thế nào? Bần Ðạo ước mong Càn Khôn Vũ Trụ phát triển cách nào trong mỗi Ngươn niên Thánh Thể của Ðức Chí Tôn tăng tiến theo luật định Thiên Ðiều, phải đi theo y khuôn luật của con đường Chí Tôn định, tấn triển tới trong năm khai Ngươn nầy vậy.

Bần Ðạo ước mơ sự tăng tiến của Chí Tôn được gia bội, gấp đôi ba bây giờ mà chớ. Muốn đạt vọng ấy, Bần Ðạo để cả tín nhiệm nơi tâm lý của toàn cả con cái của Chí Tôn. Tưởng cả thảy đều mơ ước mà làm đặng chăng là nhờ huyền năng vô tận của Ðại Từ Phụ mà thoát đặng.

Chúng ta hãy cầu nguyện, để trọn tâm đức chắc chắn nơi Ðức Chí Tôn thì Chí Tôn chẳng hề khi nào hẹp lượng. Chúng ta quyết định xin mà làm nên cho toàn cả con cái của Người, thì Người cho, chắc hẳn vậy.
Lời Thuyết Ðạo Của Ðức Hộ Pháp - Toàn Tập 2
Năm Mậu Tý (1948).
Do Ban Ðạo Sử ấn hành lần thứ nhứt năm Quý Sửu (1973) .
Kiểm Duyệt Kinh Sách số: 120/KD ngày 12-10-1970.

Q. 2/01: ÐẠO CAO ĐÀI LÀ HOÀN THUỐC PHỤC SINH HÒA BÌNH.
Tại Ðền Thánh, thời Tý mồng 1 tháng giêng năm Mậu Tý (dl. 10-02-1948)

Ngày hôm nay, giờ nầy chúng ta vui một tí, năm Tý đến với chúng ta, nếu Bần Ðạo nhớ không lầm thì buổi Chí Tôn hành pháp có cho Bần Ðạo biết rằng 3 con chuột hiệp lại là ngày thành Ðạo. Năm nay đủ 3 con chuột rồi đó vậy. Ta chắc rằng năm nay Ðạo sẽ kết quả lời hứa của Chí Tôn với con cái của Ngài, thành Ðạo tức thành Ðời nơi nước Việt Nam đó vậy.

Chúng ta thử ôn lại đã có 23 năm hành đạo, chúng ta đã chịu bao nhiêu khổ hạnh để bảo vệ con cái của Chí Tôn. Ngày nay cái kết quả nầy có đáng giá trừ cái khổ hạnh trong 23 năm ấy chăng? Bần Ðạo xin nói quả quyết rằng: Từ tạo thiên lập địa đến giờ chưa có nền tôn giáo nào được mau chóng như Tôn Giáo của Chí Tôn đến tạo nơi xứ Việt Nam chúng ta. Chúng ta ôn thử lại trong buổi thành Ðạo cuối cùng trong 2 năm nay, ta thấy gì? Nếu chúng ta có đủ tinh thần tìm hiểu Thánh ý của Chí Tôn trong 22 năm, để cho chủng tộc Việt Nam chịu đau khổ, chịu trong cảnh tương tàn, tương sát, thống khổ, cảnh tượng nguy ngập có nghĩa gì? Ý vị gì? Ấy là Ðức Chí Tôn xây chuyển cho con cái của Ngài thấy rằng: Hung bạo ở thế gian, không phải năng lực độc đoán mà thắng được và trị thế được.

Cường lực! Ôi cường lực! Ðối với thế gian nầy, nếu có phương chước, có bí pháp thì duy lấy nhơn đức trị nó mà thôi. Hung bạo của đời nầy không lấy hung bạo trị đặng, duy lấy đạo đức tinh thần trị mới đặng. Trong 2 năm quốc vận thống khổ do duyên cớ gì? Do lấy hung bạo trị hung bạo. Lấy hung bạo chẳng trừ được năng lực hung bạo vì hiện giờ sự hung bạo của thế gian vô đối. Ấy là Chí Tôn cho quốc dân Việt Nam một bài học đích đáng đủ bằng cớ trước mắt để suy đời. Ngài để kinh nghiệm hai năm rồi. Ngài lấy năng lực đạo đức tinh thần để cho thiên hạ thấy: Ðạo đức tinh thần mới có thể đem hạnh phúc đến cho nòi giống như thế nào? Làm cho tỏ rạng nền tôn giáo bằng năng lực tinh thần của Ngài, chúng ta đã thấy: Bần Ðạo sau 5 năm bị đồ lưu nơi hải ngoại, chịu mọi điều thống khổ, cái chết của Bần Ðạo cách cái sống bằng một sợi tóc, mà Bần Ðạo vẫn còn về đây. Nếu nói thế thường, cái tình cảnh chịu 5 năm khổ sở lao lý ấy, tinh thần, lấy vật hình thường tình tâm lý mà nói, không ai không cố hận, cố phiền được, hận với phiền nó cố nhiên, mà nếu hận phiền ấy theo tâm lý thường tình thì có gì quan hệ đâu. Trái lại trong thi hài của Phạm Công Tắc còn có một vị làm chủ của nó nữa là Hộ Pháp; quyền của Hộ Pháp mạnh mẽ hơn của Phạm Công Tắc là con ngựa để cỡi mà thôi, còn Hộ Pháp là người cỡi, nên con ngựa không thể không tuân mạng lịnh của chủ nó được. Hộ Pháp có một phần, mà Phạm Công Tắc có một phần, Phạm Công Tắc là tôi, còn Hộ Pháp là quyền năng của Chí Tôn.

Nòi giống Việt Nam chịu ảnh hưởng của văn hóa Nho phong 4.000 năm đã để cho chúng ta hai câu đích đáng, nếu chúng ta biết dùng từ thử nước Việt Nam không có cảnh tượng ngày nay:
"Hành thiện chi nhơn như xuân viên chi thảo, bất kiến kỳ trưởng nhựt hữu sở tăng. Hành ác chi nhơn như ma đao chi thạch, bất kiến kỳ tổn nhựt hữu sở khuy".

Câu trước: Người làm lành như vườn cỏ mùa xuân không thấy lớn càng ngày càng tăng thêm. Câu sau: Người làm ác như cục đá mài dao, tuy không thấy hao mà càng ngày càng mòn khuyết. Lấy nhơn nghĩa đối với bạo tàn, lấy tâm ưu ái trả thù hận, ấy là tâm Phật, phải tâm chí Thánh mới làm đặng. Bần Ðạo làm đặng, đặng chi? Ðặng nêu cao tinh thần Ðạo Cao Ðài nầy lên như Chí Tôn muốn.

Lẽ thì đem hung bạo trừ hung bạo, theo thường tình thì mới vui lòng, thỏa mãn tâm phàm của Phạm Công Tắc thì ắt vui mầng lắm chớ. Nhưng Hộ Pháp vì biết hại cho tương lai nước nhà, nên cầm cây huệ kiếm đưa ra, lấy tâm lý yêu ái đối lại với oán ghét, cốt yếu làm cho nhơn loại, làm chứng rằng chơn truyền của Ðạo Cao Ðài là hườn thuốc "Phục sinh hòa bình" cho nhơn loại. Quốc dân Việt Nam làm đặng thì toàn cầu mới làm đặng. Ai cầm huệ kiếm ấy đặng, thì họ cứu nước họ đặng, cũng như Việt Nam đã cứu nước Việt Nam vậy.
Q. 2/02: NGÀY XUÂN LÀ NGÀY PHỤC SINH CỦA VẠN VẬT.
Tại Ðền Thánh, đêm mồng 2 tháng giêng năm Mậu Tý (dl. 11-02-1948)

Bần Ðạo không thể đi cùng mỗi nhà của toàn cả Chức Sắc Thiên Phong và mấy em Nam Nữ đặng viếng thăm trong ba ngày xuân nhựt. Một mảnh thân muốn biến hóa ra cả muôn hình xác, nhưng không thể đặng.

Vậy thời Bần Ðạo cũng để một đôi lời cho mấy em, mấy con Nam Nữ, mấy anh mấy chị có mặt đảnh lễ tại đây biết rằng: Buổi nào tinh thần của Bần Ðạo cũng ở bên cạnh mỗi người cả thảy.

Một điều mà Bần Ðạo mơ ước hơn hết là ngày giờ nào thong dong, Bần Ðạo được vui thú thanh nhàn, nay đi nhà nầy ở một ngày, một bữa, mai đi nhà kia ở một đôi lát. Ngày nào đến cảnh an nhàn mà Bần Ðạo được đạt vọng dường ấy, thì tưởng rằng không còn hạnh phúc nào hơn nữa. Bần Ðạo tưởng mảnh thân nầy có phương thế đồng sống chung với mấy em trong cảnh gia đình ấm lạnh để cùng hiểu nhau những nỗi tân khổ sầu buồn thì Bần Ðạo rất hữu hạnh mà được chia mảy mún cũng đặng, dầu cắn hột muối hay ăn hột cơm rơi với mấy em, thì tưởng trọn kiếp sống của Bần Ðạo không có cảnh vinh quang phú quí nào trên thế gian nầy đối đặng.

Cả thảy đến thăm Bần Ðạo, mà Bần Ðạo đi thăm lại không đặng, theo đạo pháp cho là thất lễ. Xin cả thảy nên biết cái cảnh ngộ và tha thứ dùm cho.

Ngày xuân nói đến tiếng xuân, miệng nói tiếng xuân là nói tiếng sống, vạn vật ngày xuân nầy là sống là ngày phục sinh. Qua mơ ước tâm hồn của cả thảy trong một năm già cỗi, trong lúc xuân đến, cây cối nở lá nở bông, tốt tươi trở lại, tức nhiên là được phục sinh lại thì cả tâm hồn của chúng ta cũng phục sinh như thế.

Mấy em suy gẫm cái thân sanh của chúng ta là đồng sanh với vạn vật, mà vạn vật đã phục sinh thì thân hình của chúng sanh, của chúng ta, của cả thảy Nam, Nữ cũng đồng phục sinh lại. Tâm hồn của chúng ta trong một năm mờ mệt, khổ não, nhọc nhằn, trong cảnh tang thương trần thế, nay xuân về, mấy em đến nhà Ðại Từ Phụ, tức là Suối Vĩnh Sanh của tâm hồn mấy em. Qua thành tâm cầu xin Ðại Từ Phụ ban ơn cho mấy em được phục sinh trong Thánh chất của Người.

Chắc chắn cả thảy đều được hạnh phúc hiển nhiên, đương thời hay là trong cảnh xương tàn cốt rũ vì đã được hồng ân của Chí Tôn ban cho về già, tức là dưới thế nầy sẽ được an nhàn cả tâm thần và hình thể. Mong sao cả thảy được mau phục sinh mới trong Thánh chất của Chí Tôn đó vậy.
Q. 2/03: ĐỨC HỘ PHÁP HUẤN TỪ SAU BỮA TIỆC ĐẦU XUÂN.
Tại Hiệp Thiên Ðài, 21 giờ đêm mồng 3 tháng giêng năm Mậu Tý (dl. 12-02-1948)

Năm mới, không có đặt diễn văn chi. Hôm nay tôi dùng những tiếng thường để nói việc đời.
Theo thế thường người ta nói: "Thực nhơn tài phải cứu nhơn tai" (Phàm ăn của người phải giúp cho người). Tuy vận tôi nghèo, nhưng tôi làm cái tiệc nầy rất đặc biệt, lại nữa tôi mời quý Ngài cũng đặc biệt, toàn là chư vị yếu nhơn cầm quyền Chánh Trị Ðạo, không ai là ở ngoài. Tôi không nói dối rằng nhà tôi đơn chiếc, vì nhà tôi là cả toàn cầu.

Quý Ngài hưởng lễ rồi, tôi xin nhờ quý Ngài một việc: Vì tôi có một ông Cha Thiêng Liêng là Thiên phụ, Ông cho tôi cái quyền bác ái là thương cả toàn cầu, và một ông Chúa là Thiên tử. Thiên phụ tôi thì giao chèo chiếc thuyền Bát Nhã, Thiên tử giao đẩy xa thơ, từ Nam chí Bắc, từ Ðông chí Tây. Anh em rất đông, nhưng người ngồi trên thì nhiều, còn kẻ đẩy, chèo, thì ít.

Năm rồi, các Ngài hảo tâm giúp sức cũng chèo, cũng đẩy năm nay cũng vậy, xin cũng giúp đẩy, giúp chèo cho đến nơi, đến chốn. Ấy là ơn trọng lắm vậy.
Xin quý Ngài giúp tôi cho trọn đạo.
Q. 2/04: QUYỀN NĂNG CỦA NỀN TÔN GIÁO.
Tại Ðền Thánh, thời Tý mồng 3 tháng giêng năm Mậu Tý (dl. 12-02-1948)

Trong ba ngày xuân, Bần Ðạo ước mong nước Cam Lộ của Chí Tôn chan rưới đặng rửa tâm hồn của mấy em, phục sinh trở lại.

Nay Bần Ðạo xin thuyết minh quyền năng của nền Tôn giáo.
Cả chủng loại, loài người và vật loại, chúng ta quan sát ngoại thể thấy loài người và vạn vật phải ở chung hiệp cùng nhau, gọi là xã hội mới sống được. Chúng ta thấy trước mặt nhiều vật loại sống đặng như ong, kiến, cũng nhờ tổ chức xã hội, giống thú mà còn biết chung hiệp từ đoàn thể tức nhiên có tinh thần xã hội. Loài người cốt yếu sống cũng phải có xã hội. Lại nữa, nếu chúng ta tìm chơn lý của Phật giáo thì thấy Chí Tôn đã phú thác cho loài người làm chúa vạn vật. Ngài để tinh thần của loài người cao trọng, tức nhiên cho người có khối linh vĩ đại, trọng hệ hơn, đủ phương thể làm tròn trách vụ đối với vạn vật, tức Ngài định cho ta làm chủ xã hội vạn linh.

Làm trách vụ tức nhiên có tinh thần cảm xúc mà cảm xúc tức nhiên sanh tình. Tình là luật thiên nhiên của Chí Tôn. Tình phân ra hai vở chánh, nơi cõi phàm thì có luật định giới hạn, chúng ta thấy tạo luật pháp xã hội, hiển nhiên nơi cửa Hư Linh cũng có đặc quyền, nên cũng phải có khuôn luật là Thiên điều. Có nhiều vị Phật cầm vững quyền thưởng phạt ấy, gọi là nhơn quả, vay trả, hễ nên thì thưởng, còn hư phải thường, luật định như thế rất nên công bình chánh đáng.

Vì có khuôn khổ luật pháp do quyền Thiêng Liêng của Chí Tôn định, bằng chẳng vậy dữ cũng như hiền, lành cũng như ác, (*1) hỗn độn cả tinh thần của Chí Linh, tổng số không mực thước, không căn đề, không cội rễ.

Ấy vậy Ðạo cốt yếu tạo khối tình ái tâm lý của loài người, biết mình là phần tử của xã hội, phải làm điều gì cho xã hội nhờ.

Gia đình là một phần nhỏ trong xã hội, nếu biết gìn giữ thân thể, tôn trọng danh giá cha mẹ, anh em thảng có đứa du côn không kể gia pháp, làm rối loạn gia đình thì kẻ đó ai cũng muốn bỏ, muốn đưa ra khỏi gia đình tông tổ. Sợ e gia đình nào mực thước, thảng có điều vô phúc ấy sẽ xử đứa làm nhục đó, hình phạt nặng nề hơn kẻ tha nhơn.

Càn khôn là đại gia đình, cửa Ðạo cũng vậy, xã hội cũng vậy, là một gia đình có cha mẹ, bà con, như một tông tộc vậy.

Lớn hơn gia đình là một quốc gia, là một gia đình lớn, gồm cả các gia đình tổng hợp lại, chiều theo một khuôn luật do quyền năng của Ðạo giáo tức Ðại gia đình.

Ta lần lượt đi đến toàn nhơn loại hiệp lại thành Ðại gia đình.

Con người sanh ra phải biết trách vụ của mình, trong tiểu gia đình hay đại gia đình cũng vậy. Người ở gia đình chỉ xưng mình là con, vì cớ Jésus Christ chỉ xưng mình là con của Người (le fils de l'homme).

Ôi! Chỉ làm người mà được thành nhơn thì hiểu giá trị của nó thế nào? Văn minh Nho giáo hiểu giá trị làm người ấy khó khăn lắm, khó mà minh biện được: "Vi nhơn nan, vi nhơn nan" (làm người khó, làm người khó). Tố tố vi nhơn nan (làm người rất nên là khó).

Mong làm người cho xứng đáng là người trong gia đình là khó khăn lắm, mà hễ làm người để dìu đỡ được gia đình, tức là chúa gia đình đó; mình là người mà nâng đỡ được quốc vận, là chúa của quốc gia. Giờ ta thử hỏi: Một nền tôn giáo đem tâm lý loài người hiệp một lại là một điều đứng trên cái mức đại gia đình đó. Làm người chủ xứng đáng của gia đình đã là khó, làm người chủ xứng đáng của quốc gia lại càng khó, rồi làm người chủ xứng đáng của một nền tôn giáo không phải dễ. Hễ làm chủ được xứng đáng, thì đối với nhơn quả, ta chỉ có nhơn mà không còn quả nữa. Người đã đem thân nầy ra làm chúa gia đình, không còn là mình nữa mà là bậc tiền bối; người đáng là người chủ của một nước là bực Thánh nhơn, người đáng là người chủ một tôn giáo ấy là vị Phật.

Ấy vậy, chúng ta muốn quan sát một tôn giáo nào được gọi là chánh giáo, thì tôn giáo đó phải đủ yếu điểm tạo nên người chủ của nó đặng dìu đỡ các phần tử của Ðạo ấy, đủ hạnh kiểm, đủ quyền năng. Phải cao thượng hơn sự thường tình, đi cho vững trên con đường hằng sống mới xứng đáng là chủ của Ðại gia đình Càn Khôn Võ Trụ. Cả phương pháp không mực thước quyền hành để đạt đến địa vị chúa một tôn giáo thì không phải chánh đạo. Ta đã thấy gì? Ðạo Cao Ðài có không? Ta suy xét coi: Có hẳn. Nếu con đường ấy, kẻ nào cố gắng thì nên người làm chúa nền tôn giáo của Chí Tôn đã tạo sẵn, có mực thước, chuẩn thằng, phép tắc, để cho người ấy lập nên địa vị.

Phụ ghi:
(*1) Nơi đoạn thứ 5: Vì có khuôn khổ luật pháp do quyền thiêng liêng của Chí Tôn định, bằng chẳng vậy dữ cũng như hiền, lành cũng như ác,...
Nguyên bản chánh in là: Vì có khuôn khổ luật pháp do quyền thiêng liêng của Chí Tôn định, bằng chẳng vậy dữ cũng ra hiền, lành cũng như ác,...
Chúng tôi mạn phép trình bày như trên cho rõ nghĩa hơn.

Q. 2/05: QUYỀN NĂNG CỦA NỀN TÔN GIÁO. (tiếp theo)
Tại Ðền Thánh, ngày 4 tháng giêng năm Mậu Tý (dl. 13-02-1948)

Ðêm hôm qua bị đèn tắt, nên chưa kết luận thể pháp. Nay Bần Ðạo thuyết hơi dài một chút, xin cả thảy có mõi chân đừng phiền.

Ðêm hôm qua, Bần Ðạo đã dìu dắt các bạn, các em, các con, đi trên con đường tầm kiếm triết lý một nền Tôn giáo. Cả nhơn loại đều học làm chúa toàn cả gia đình, được làm chủ một tiểu gia đình, tức là một tông tộc là một vị hiền tại thế rồi, được làm chủ một đại gia đình là Quốc gia, là một vị Thánh nhơn, được làm chủ một số Quốc gia hiệp lại như Hiệp Chúng Quốc tại Mỹ Châu như Washington,... chẳng hạn, là một vị Tiên, được làm chủ tối đại gia đình tức nhiên làm chủ toàn thiên hạ, một nền tôn giáo là một vị Phật. Thể pháp của Ðạo Cao Ðài có khuôn khổ tập cho nhơn loại đi đến mục đích trong luật pháp của một nền chánh giáo.

Kế đây, Bần Ðạo xin thuyết về bí pháp. Vả chăng Chí Tôn sanh chúng ta là người, cho chúng ta là người, cho chúng ta nhứt điểm linh quang tạo hình ảnh mỗi cá nhân. Ngài định phận sự tối trọng yếu của Ngài và cầu chúng ta thật hành cho ra thiệt tướng, nghĩa là: Làm thế nào đặng làm chúa vạn vật hữu vi cho Ngài. Hễ giao phận sự thì buộc phải đảm nhiệm luật pháp cũng như sai ai thế hình ảnh cho mình đến nơi nào, làm phận sự gì cần đưa chương trình đặng thi thố ra sao cho thành đạt. Trong chương trình có phương pháp hành vi, tức nhiên luật pháp của Ðức Chí Tôn muốn buộc loài người đạt đức làm chúa vạn vật, định pháp vô hình tức nhiên định Thiên điều. Thiên điều là luật, còn pháp là quyền năng thưởng phạt nhơn quả. Không lạ gì, chúng ta thấy thế thường, con người không làm thì không có nên hư, còn lãnh trách vụ thì nên hư đặng thất. Nên hư đặng thất của con người là một tấn tuồng nơi mặt thế. Ta nhận thấy mang thi hài, xác thịt, khối chơn linh chịu mờ ám, chỉ biết sống phải hiểu nghĩa vụ mình, không phải sống đặng thừa hưởng, từ khi lọt lòng mẹ thì đã mang một mối nợ trần. Hễ mắc nợ thì phải trả, mà trả cho ai? Khởi trả cho gia đình trước. Ai là người làm trọn đạo gia đình cũng khó lắm rồi, biết bao nhiêu trở lực, quả kiếp trước tái diễn lại, phải vay trả kiếp sau. Vay vay, trả trả, chẳng khác anh lái buôn kia trong đường đi. Muốn học làm chúa vạn vật cũng phải nhiều đường lối gay trở khó khăn.

Nếu Bần Ðạo không vi chủ đặng đè nén con vật nầy, chỉ biết sống như con vật thì đã quên hẳn mình là gì, chẳng cần luận, đương nhiên nhơn loại lâm vào cảnh vay trả như anh lái buôn bị gian lận nhiều nên bán lỗ, ấy là nhơn. Ði chuyến khác nữa may mua rẻ bán được mắc thì được lời. Lời lỗ là con buôn nơi trường đời. Ta thấy giờ nào chúng ta chẳng còn buôn lấy lời cho chúng ta hưởng mà là buôn cho Ông chủ hảng hưởng, ngày ấy chúng ta không sợ lỗ lời. Nhơn quả cũng thế, ngày giờ nào ta chẳng còn là ta mà còn trong gia tộc ta, ngày giờ nào ta chẳng còn là ta mà sống cho nhơn loại, ngày ấy là ngày giải thoát.

Mình không vay hỏi ai, mình chỉ cho mượn thì mình ắt giàu. Ngày giờ nào mà lời lỗ mình không chịu trách nhiệm chỉ sống về nghề nghiệp của mình mà thôi, thì mình ắt không ăn thua chi với ai tất cả. Ðức Chí Tôn cũng thế, ngày giờ nào con cái của Ngài lấy hiếu đối với Ngài, nuôi nhơn loại về tinh thần và vật chất đó là cơ quan đạt đạo, chúng ta cho vay mà không thiếu, ấy là ta tự giải thoát.

Ta thử hỏi cả bí pháp của Ðạo Cao Ðài có như vậy chăng? Có chớ! Kìa cái Cửu Trùng Thiên Chí Tôn đem phô bày tại mặt thế nầy đối với Cửu phẩm Thần, Tiên, không còn ai chối đặng, ai đi trọn thì được giải thoát. Ngôi Giáo Tông môi giới hay thiệt? Chính Anh Cả chúng ta đã ngồi được. Ai làm được vậy chăng? Làm được chớ! Nếu có kẻ nói mắc lo gia đình, không thể lo Ðạo được là phi lý. Ðạo là trường học đạt đại gia đình, Ðạo là trường thi lập vị, sao lại làm không được? Tại làm biếng học! Học đặng hành. Nên hư do tại mình, không phải do Chí Tôn và cũng không phải tại Ðạo. Tôn giáo nào không đạt được Cửu phẩm Thần, Tiên dưới thế nầy, thì trên Cửu Thiên kia không hề đạt vị được. Ấy vậy, về mặt bí pháp Ðạo Cao Ðài là rõ ràng một nền chánh giáo của Chí Tôn vậy.
Q. 2/06: KHI VÔ ĐỀN THÁNH PHẢI BỎ HẾT PHÀM TÂM.
Tại Ðền Thánh, đêm 29 tháng giêng năm Mậu Tý (1948)

Hôm nay, Qua lên giảng giải là do đêm trước Truyền Trạng Ngọ đã giảng trong khi lãnh trách nhiệm thay quyền Tiếp Lễ Nhạc Quân, đứng trên ngó xuống thấy mấy em có cử chỉ do tâm lý không được chững chạc và đúng theo nghiêm luật của Hội Thánh. Nhưng đó là bề ngoài chẳng nói chi, trọng hệ hơn hết là cái huyền vi bí mật của Ðền Thánh nầy, buộc lòng Qua phải lên giảng.

Mấy em có biết tương lai nền Chơn giáo nầy của mấy em là tạo đại nghiệp gia đình cho một sắc dân gọi là Tân Dân của Chí Tôn, để nơi mặt thế nầy, là Thần Thông Nhơn. Mấy em kiếm hiểu hai tiếng Thần Thông, dầu không thấu lý mà nghe nói tiếng ấy cũng hiểu sự quan hệ của nó ra sao.

Ấy vậy, muốn tạo một tinh thần tới Thần Thông cho sắc dân Tân Dân của Chí Tôn đem đến mặt địa cầu nầy, do trong mấy em hiện tượng ra mà mấy em không tầm cái giống Thần Thông thì làm sao tạo Tân Dân ấy cho được. Cả huyền vi bí pháp của Chí Tôn để tạo Thần Thông Nhơn ấy, mắt mấy em nhìn thấy không biết hình ảnh thì làm sao đạt thành được.

Mấy em sẽ làm Cha, làm Mẹ của đám Thần Thông Nhơn ấy mà không có hột giống làm sao tạo hình cho đặng. Còn như Qua đây là Hộ Pháp khi lên Ngai đứng có mấy công chuyện mà quên trước quên sau, đó là buổi mới khai Ðạo. Còn mấy em dầu khó khăn đi nữa, nay Ðạo đã 22 năm mà còn quên thì không biết nói làm sao đặng.

Mấy em có thấy đâu khi vô Ðền Thánh, đền nầy gọi là Ðền Thánh, thì thế nào mấy em phải hiểu. Qua đứng trên Ngai lấy hết tư tưởng của mấy em cái giọng của mấy em cầu kinh Qua ôm hết dâng lên cho Ðức Chí Tôn, dâng đây, không phải là tiếng thường, ấy là cái thiên thiều, Ngài hưởng rồi, Ngài trả lại cho mấy em cái thiên tinh. Có như vậy thì địa cầu nầy mới an tịnh, mới thái bình được. Mấy em ôi! Nếu cúng mà giọng đọc thô bỉ, không đồng một nhịp nhàng thì mong gì cái thiều quang của Càn Khôn Vũ Trụ điềm tỉnh đặng an hưởng.

Qua đứng trên Ngai, Qua thấy trên Nê Hoàn Cung của mấy em, nếu định tâm, thì có một hào quang xung lên đều đều, mọi người đều có cả hào quang đó, có một vị Phật ôm hết đem vào Bát Quái Ðài, hiệp với đạo hào quang trong quả Càn Khôn đoạn đem trở ra bao trùm chỗ ngồi của mấy em, mà mấy em không thấy được, cho nên khi mấy em hầu lễ, nếu biết hưởng cái ơn Thiêng Liêng ban cho đó, thì tinh thần được an tịnh, hạnh phúc biết bao, nếu biết thọ hưởng cái hồng ân đó, cũng như lúc mấy em đói rồi có ai liệng cho đồ ăn, mà không biết hưởng, thì làm sao no đặng, tức phải đói.

Ðáng lẽ khi bước vô Bửu Ðiện, đi ngang qua Hiệp Thiên Ðài thấy toàn màu đỏ, màu đỏ thuộc về xác thịt, vậy đi qua rồi phải tịnh tâm. Qua không nói ai, vì trước mỗi buổi đều tắm rửa, vô đó, dầu hình thể của mấy em có nhơ nhớp, thúi hôi, cùi đày mà cái tâm của mấy em trong sạch đó là tâm vô tội. Dầu kẻ nào tội tình ưu lự thế mấy mà bước vô Ðền Thánh rồi, cũng phải tập tánh cho thanh khiết, bỏ cả những tư tưởng phàm tục, để tâm nhứt nguyện mới có sự hưởng ứng. Mấy em đem cái hình xác vào Ðền Thánh, nhưng là cái xác vô tội, đặng hiến cho Chí Tôn. Nếu không vậy, thì có vào Ðền Thánh, kẻ ngồi chỗ nầy, kẻ ngồi chỗ kia mà trong óc không niệm, thì vô Ðền Thánh có ích gì? Ði cúng, điều trọng yếu nhứt là tinh thần, cái huyền vi bí pháp tinh thần ở đấy là CỬU TRÙNG ÐÀI rồi BÁT QUÁI ÐÀI thuộc về Chơn Linh, ấy là linh tâm xuất hiện, nếu mấy em có cảm mới có ứng, mà nếu có ứng, thì mấy em mới hưởng được, thảng không hưởng được là lỗi tại mấy em không trọn tâm thành kính.

Thỉnh thoảng rồi Qua sẽ giải bí pháp của Hộ Pháp đứng trên Ngai là gì? Mấy em không thấy cũng đáng trách. Vậy từ đây về sau, Qua chỉ xin mấy em một điều là hễ bước chân vô Ðền Thánh, thì phải bỏ hết cả phàm tâm, thì hạnh phúc sẽ to lớn, bằng chẳng vậy, đừng đi cúng, vì đến cúng, không những không hưởng được đặc ân, mà còn mang tội thêm mà chớ.
Q. 2/07: LIÊN QUAN CON CÁI CHÍ TÔN VỚI NGÀI.
Tại Ðền Thánh, đêm mồng 1 tháng 2 năm Mậu Tý (1948)

Bần Ðạo hứa sẽ tiếp tục giảng về cái Ngai của Hộ Pháp và phận sự của Hộ Pháp phải làm gì, nhưng Bần Ðạo tưởng cả thảy chưa cần biết, yếu trọng hơn hết là vấn đề liên quan của con cái Chí Tôn với Ngài.

Bần Ðạo thấy cả con cái của Ngài, nghe tiếng gọi của Ngài mà đến, là vì yêu ái Ngài, tâm linh biết cảm ứng, biết nhìn nhận Ðấng tạo sanh linh quang là Cha, Cha kêu con đã là sự thương rồi, nên sự thương yêu của toàn thể tín đồ nam nữ cũng vậy đối với Chí Tôn vô hạn; Bần Ðạo chán biết và xin thú thật rằng: Ngày nào về cõi hư linh, nếu vô tòa phán xét Bát Quái Ðài thì Bần Ðạo quả quyết làm chứng rằng tình thương của nhơn sanh đối với Chí Tôn rất nồng nàn. Nhưng có điều khuyết điểm nầy: Chớ chi con cái của Ngài đem tình ái ấy để cả thảy thương lẫn nhau, dùng tình thương đã đem hiến cho Chí Tôn có thể hiến chung cho nhau, đặng cùng hưởng tại mặt thế nầy. Trái lại: Không!

Ðiều khuyết điểm ấy quá lẽ buộc Bần Ðạo phải minh triết cho cả thảy được rõ biết. Ước mong con cái của Chí Tôn biết thương yêu nhau nồng nàn hơn là thương Ngài nữa mới đặng.

Cả thảy đừng tưởng rằng: Mình bước chân vào cửa Ðạo là một sự tình cờ đa. Bần Ðạo quả quyết rằng: Không phải là một sự tình cờ, và nếu Bần Ðạo chứng chắc rằng toàn con cái của Ngài đều ở trong lòng của Ngài, sanh ra đã có một tình yêu đối cùng nhau, từ trong vật loại dĩ chí nhơn thân chúng ta đã có liên quan mật thiết nồng nàn, khối tình ái vô biên vô hạn. Cả thảy nên biết điều ấy, Bần Ðạo xin nói thật, ngày giờ nầy cho các chơn linh đến mặt thế đã từng chung chịu khổ não cùng nhau, cả muôn kiếp sanh mới gặp gỡ nhau trong lòng của Ðức Chí Tôn đó chớ.

Trong 24 chuyến thuyền Bát Nhã, đem chơn linh đến mặt địa cầu, mấy bạn đã ngồi trong ấy, ngày nay Ðức Chí Tôn đã đến, đến để làm tròn một lời hứa của Ngài. Còn chúng ta đã hứa với Ngài những gì? "Hứa: Các con vì Thầy đầu kiếp đặng tạo tinh thần vật loại, độ cả hóa nhân và nguyên nhân qui hồi cựu vị. Các con vì thương Thầy tạo hình ảnh của Ðạo". Ngày nay là ngày giờ chót Thầy đến với mục đích và sở vọng của Thầy là hội hiệp các con lại làm một cùng Thầy.

Ôi! Nếu các bạn đã biết, từng chung chịu đau khổ cùng nhau cả vạn kiếp sanh. Nơi đây có kẻ đã làm cha, làm ông, làm chị, làm mẹ chung lẫn trong các kiếp tái sanh nơi mặt địa cầu nầy để tạo yêu thương trong toàn nhơn loại. Các bạn có biết điều ấy đâu, duy có thấy gần mà chẳng thấy xa, đương nhiên cùng máu thịt thì thương nhau, biết đâu trong đám nầy có kẻ đã làm cha, mẹ, ông, bà ta, mà ta không thấy, không biết. Tình cảm của chúng ta hễ khuất mắt rồi, thì nhẹ giá trị quá lẽ. Bần Ðạo là Hộ Pháp, nếu Bần Ðạo nói điều chi mong đặng gạt gẫm nhơn sanh, ngày kia về Ngọc Hư Cung Bần Ðạo chịu trách cứ đó.

Ôi! Kiếp sanh tại thế mang xác thịt, hỏi sống được mấy lát? Nội một giấc thức, giấc ngủ là thấy sự chết sống của kiếp con người, mang thi hài bóng dáng nầy là giả. Cảnh thiệt không phải ở đây, mà cảnh thiệt ở nơi chỗ khác kia, sao không tìm cảnh thiệt là cảnh tồn tại, lại chạy theo bóng?

Ước ao cả thảy biết điều trọng hệ bí mật đó mà thương yêu lẫn nhau, thương lún thương càn đi, rồi ngày kia coi có lầm chăng? Bần Ðạo quả quyết, ấn Hộ Pháp, Bần Ðạo nắm trong tay, nói chẳng hề sai chạy. Bần Ðạo mong ước cả thảy con cái của Chí Tôn, đừng tưởng mang thi hài nầy mà nam nữ phân biệt đa nghe. Biết đâu trong đám nữ nầy, có kẻ đã làm cha, làm anh của người nào đó. Giả cuộc đừng coi trọng hệ, cả thảy nên hiểu và từ đây noi theo lẽ thiệt, đừng mơ sự giả, đó là điều mơ vọng ước ao của Bần Ðạo hơn hết.
Q. 2/08: HỘ PHÁP HÀNH PHÁP MỖI KHI VÔ CÚNG ĐÀN.
Tại Ðền Thánh, đêm 14 tháng 2 năm Mậu Tý (dl. 24-03-1948)

Hôm nay Bần Ðạo chẳng phải thuyết đạo, Bần Ðạo chỉ nói chuyện mà thôi. Nói chuyện Hộ Pháp, mỗi phen vô cúng đàn làm việc chi, theo như lời Bần Ðạo đã hứa.

Bần Ðạo nói đây để cả thảy được biết điều ấy trọng hệ như thế nào, đặng giữ gìn và giúp Bần Ðạo mỗi phen hành pháp được dễ dàng một chút. Bần Ðạo nói hôm nay, để đêm mai có nhiều thì giờ giảng những điều thiết yếu hơn, trọng hệ hơn.

Mỗi phen nhập đàn, hễ trống chuông rồi, thì tất cả đi vô, cả thảy đi vô thong thả, chỉ có Bần Ðạo thật bối rối, bước lên ngai rồi, trụ pháp lại, vẽ bùa niệm chú. Câu chú mà khi thượng sớ, chúng ta thường nghe đọc "TAM CHÂU BÁT BỘ HỘ PHÁP THIÊN TÔN". Thật sự thì như vầy "TAM THIÊN THẾ GIÁI HỘ PHÁP GIÁNG LÂM". Từ trước đến giờ, các bậc tiền bối của chúng ta đã để như nói trên nên không thể sửa cải được, phải để y như vậy.

Khi bái đàn rồi cả thảy quì tụng kinh, còn Bần Ðạo tịnh niệm, mỗi câu kinh mấy em đọc vẫn dễ, vì thuộc mà đọc thôi, riêng Bần Ðạo mỗi câu kinh phải mật niệm, tụ hết cả nghĩa lý của nó dâng lên Chí Tôn và các Ðấng Thiêng Liêng. Rồi còn điều nầy rắc rối hơn hết, hễ khi nào cả thảy tụng rồi bài kinh Chí Tôn hoặc kinh Tam Giáo, khi Bần Ðạo thấy nín hết, buổi đó đem hết tinh thần trụ lại, dâng lời mặc niệm ấy vào Bát Quái Ðài. Ðến khi tất cả niệm ngũ nguyện cũng vậy, Bần Ðạo định tâm, dồn cả đức tin biến thành một huệ quang chiếu diệu đem vào Bát Quái Ðài rồi, đợi cho Bát Quái Ðài trả lời khi ấy ở trong đó ánh sáng tủa ra, Bần Ðạo cúi đầu niệm thế cho cả thảy.

Còn dâng Tam Bửu, Bần Ðạo hiểu cả nghĩa lý của nó đang khi dâng bông, cả thảy hình thể con cái của Chí Tôn tức là Thánh Thể của Ngài, trụ hết xác Thánh đó dâng cho Ngài đặng Ngài làm phương cứu thế. Ðó là dâng bông.

Tới dâng rượu, cả thảy khi dứt câu kinh, nín lặng hết, Bần Ðạo vận dụng cả trí não tinh thần, đem đức tin của cả thảy dâng vào Bát Quái Ðài.

Tới dâng trà, là dâng cả linh hồn cho Chí Tôn. Bần Ðạo để cả tinh thần trụ lại, đem linh hồn của cả con cái Chí Tôn dâng cho Ngài.

Khi các người cầu nguyện, buổi cầu nguyện biết vậy thì nguyện như vậy thôi, còn Bần Ðạo phải trụ hết tinh thần định trở lại, đem cả những lời cầu nguyện ấy đặng dâng cho Chí Tôn và các Ðấng Thiêng Liêng.

Khi Chí Tôn truyền cho pháp ấy, Bần Ðạo nghĩ rằng: Ðó là chiếu theo cổ pháp của nhà Phật buổi trước, nhứt là Thiền Môn mỗi khi làm chay, thí của, cầu siêu, hay tuần tự chi đều rước một vị Hòa Thượng trụ trì đến. Không gì khác hơn là bí pháp của Chí Tôn trụ thần, Bần Ðạo dám chắc rằng không ai biết, họ tụng kinh như hát mà thôi, không ai để hết tinh thần vào câu kinh, nên mấy thầy chùa gõ mõ tụng kinh có ăn thua gì, trọng hệ là vị Hòa Thượng trụ trì ngồi hành pháp, nhưng không hiểu họ có biết mà làm y theo đó hay không? Cái trọng hệ ấy, nếu ai làm cho y, thì là trúng với bí pháp. Tiểu Ðàn thì vậy.

Còn Ðại Ðàn lại còn rối cho Hộ Pháp hơn nữa, là có ba ấn: Thượng Ngươn, Trung Ngươn, Hạ Ngươn, ấn ấy không phải do tay Hộ Pháp không? Khi đứng lên Ngai rồi bắt ấn Hộ Pháp, lấy cả tam bộ Thiêng Liêng tức là sanh khí mà ta thấy trước mắt tỏa ra cùng khắp. Rồi đến trụ thần lại bao trùm cả trái đất nầy như vòng bao một trái cây gì vậy, để cái cuống lên trên, đem dâng cho Chí Tôn ngự. Kế dâng bông, bắt ấn Thượng Ngươn dưới đạp Ngưu Ðẩu, tay đưa Gián Ma Xử lên hiệp với chữ Khí, đem khí ấy đưa ra cả càn khôn thế giới. Ấn Thượng Ngươn làm chủ chữ Khí, đem khí ấy hiệp hết cả Ngươn Khí đặng bao trùm vũ trụ.

Ðến Trung Ngươn bắt ấn Hiệp Chưởng biến hóa, Gián Ma Xử để nằm ngang, đuôi bên Thế, cán bên Ðạo, ý nghĩa Ðạo cầm cán đặng trị Ðời. Bắt ấn Hiệp Chưởng, cầm cả cơ pháp của vạn vật biến sanh đặng bảo tồn không cho tương tranh, tự diệt nhau.

Tới Hạ Ngươn, tay tả thuộc dương để trên, tay hữu thuộc âm để dưới, rồi để Gián Ma Xử chúi xuống, trụ thần đem cả càn khôn hiệp cả vạn vật. Bắt ba ấn phải trụ thần, làm sao cho ấn ấy đừng thất pháp. Cho nên ban sơ, buổi Chí Tôn mới giao cho Bần Ðạo tại Từ Lâm Tự, cái khó là trí óc vẫn lo ra, vì không quen, không phải mình làm thầy phù, thầy pháp gì ổng giao cho học mãi làm không trúng. Vì cớ nên mới có quỉ lộng tại Từ Lâm Tự buổi nọ, các ấn khác của Hộ Pháp có linh hay không mà quỉ lộng? Ấy là Thiên Cơ khiến vậy. Chí Tôn mở Tam Thập Lục Ðộng coi có phá nổi Ngài không? Có thể làm cho tiêu diệt nền Chánh Giáo không? Ðể cho chúng sanh thí nghiệm mà thay quyền năng vô tận của Ngài. Buổi nọ vì thời gian ngắn ngủi, nên công việc chưa rành rẽ, vì không đủ thì giờ để chuyên luyện, hoặc cho là chưa trọng hệ cho lắm, nên có điều sơ lược. Ðó là Thánh ý của Ðức Chí Tôn muốn như vậy.

Trong một thời cúng, Bần Ðạo đã căn dặn nhiều phen trọng hệ hơn hết, là khi dâng Tam Bửu, dầu cho tinh thần suốt buổi cúng có nhiều lúc lo ra đi nữa, đến khi dâng Tam Bửu, khuyên cả thảy định thần đặng mật niệm, dâng ba bửu trọng hệ cho Chí Tôn, tức là giúp sức Bần Ðạo hành pháp dễ dàng một chút đó.
Q. 2/09: Ý NGHĨA ĐI HOÁN ĐÀN ( Cúng Đại Đàn).
Tại Ðền Thánh, đêm rằm tháng 2 năm Mậu Tý (dl. 25-03-1948)
(LỄ THÁI THƯỢNG)

Nay Bần Ðạo định giảng tiếp, nhưng vì bị vụ hoán đàn mà không cho vô, nên Bần Ðạo phải giảng nghĩa rõ vì sao mà không cho vô ấy, vậy có đứng lâu mõi chân xin cả thảy đừng phiền nghe.

Không có một điều chi Chí Tôn để trong Pháp giới của Ngài trong cửa Ðạo nầy mà không có nghĩa lý. Ít nữa mình không biết thì phải tìm cho biết, coi tại sao như thầy chùa chạy kim đàn vậy, tìm cho ra duyên cớ đặng hiểu biết bên trong pháp giới của Ðức Chí Tôn là thế nào mà hình thể bên ngoài lại dị kỳ làm vậy. Không biết phải hỏi, cả thảy nên biết rằng, không một điều gì trong nền Tôn Giáo nầy mà vô nghĩa lý đa nghe.

Tại sao phải hoán đàn, nam, nữ chen nhau? Ðó là bùa pháp luân thường chuyển. Tại sao Chí Tôn để bùa pháp luân thường chuyển tại thế này, đặng chi vậy? Hiện đã mãn Hạ Ngươn tam chuyển, bắt đầu Thượng Ngươn tứ chuyển ta gọi là khai ngươn nên phải để cho pháp luân chuyển.

Ta đã biết thời Tiên Thiên Khí và Hậu Thiên Khí chuyển làm một mối đạt Ðạo đặng.(*1) Cả thảy đều biết qua Cửu Trùng Ðài nầy là Cửu Thiên Khai Hóa, còn cung trên kia là Cung Ðạo, từ trước đến nay, mỗi người mãi miết tìm Ðạo mà Chí Tôn để giữa đó, trước mắt mà không biết. Ði chín từng Trời để cho phần hồn đi cho cùng tột cửu phẩm Thần, Thánh, Tiên, đến Phật, tức là Phật xuống phàm, rồi phàm trở lại Phật, chuyển luân như vậy, bí pháp gọi là đạt Ðạo. Tại sao cả thảy không tìm hiểu, rồi không chịu vô hoán đàn, sợ mỏi chân, chờ trong nầy thiên hạ đi giáp rồi mới vô cúng mà thôi.

Cũng vì bởi không hoán đàn là không đạt được thể pháp đó không đủ theo pháp giới của Chí Tôn, nên người cầm pháp có phận sự không cho vô tức là không cho làm loạn Ðạo.

Phụ ghi:
(*1) Nơi đọan thứ 4: Ta đã biết thời Tiên Thiên Khí và Hậu Thiên Khí chuyển làm một mối đạt Ðạo đặng...
Chúng tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Ta đã biết thời Tiên Thiên Khí và Hậu Thiên Khí chuyển làm một mới đạt Ðạo đặng...
Q. 2/10: ĐẠO LÀ SỰ SỐNG TRONG CÀN KHÔN VŨ TRỤ.
Tại Ðền Thánh, thời Tý mồng 9 tháng giêng năm Mậu Tý (dl. 19-02-1948)
VÍA ÐỨC CHÍ TÔN

Thưa cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong Nam, Nữ, Chư Ðạo Hữu, mấy em, mấy con Nam, Nữ, một cái lễ đầu xuân là lễ Ðức Chí Tôn. Ngày nay ta tính lại đã trót 23 năm Chí Tôn đến cùng con cái của Ngài, cái hạnh phúc của nhơn loại may duyên gặp hồi tận độ của Ðức Chí Tôn đáng lẽ tinh thần loài người thoạt nghe thoạt thấy, tâm linh buộc phải xu hướng theo sau bước chân của Chí Tôn. Tại sao ta phải hỏi vì cớ nào đã 23 năm mà nhơn loại chưa hưởng được hồng ân của Chí Tôn chan rưới nơi mặt thế này?

Bần Ðạo đã thuyết mấy kỳ trước: Một nền Chánh giáo dầu bí pháp, dầu thể pháp phải có thiệt tướng như thế mới ra một nền Chánh giáo. Ngày nay là ngày Chí Tôn đến cùng ta, kỷ niệm nầy, bất tiêu bất diệt. Bần Ðạo đã thuyết vì cớ nào từ tạo Thiên lập Ðịa đến giờ, nhơn loại vẫn khư khư tầm Ðạo. Chúng ta chán thấy rằng, nhơn loại trên địa cầu nầy thay đổi nhiều lớp mà nay chúng ta còn tồn tại đây, theo Chơn pháp để lại tính ra đến nay là 3 lần 36 ngàn năm. Thành ra từ mặt địa cầu có nhơn loại đến giờ là 108.000 năm. Trong 108.000 năm biết bao nhiêu thay đổi, đáng lẽ nhơn loại đã quên Chí Tôn mà chớ, sao vẫn nhớ mãi mà thôi, bởi chẳng nhớ Ngài chẳng đặng. Tại sao không nhớ Ngài không đặng? Nhơn loại đang đi tìm, khao khát cái danh từ, tên tuổi của Ngài. Các dân tộc đang tìm tòi vì biết nhìn Ngài là người chủ quyền tạo đoan Càn Khôn Thế Giới. Ai đã dạy họ, ai chỉ cho họ, ai buộc họ, mà họ biết chơn lý chỗ nào mà theo, một điều là người nào cũng vẫn tìm tòi mãi điều ấy mà thôi. Bần Ðạo không nói riêng về loài người, dầu vật loại vô tri vô giác hay hữu tri hữu giác cũng vẫn tìm người mãi mãi.(*)

Ta thấy vật vô tri vô giác như đá, sắt là bất động vật, rõ ràng không âm thinh chỉ có sắc tướng ta thấy chắc trí giác đã thế nào, Bần Ðạo xin hỏi đá tìm ai, kiếm ai mà cục nầy chồng chất lên cục kia, leo trên nhau mà thành ra hòn núi? Ðặng tìm kiếm khối sanh quang của nó. Vật hữu sanh, chúng ta thấy cây lúa mới cấy nó nằm nghiêng, sau khi sống nó đứng thẳng đầu lên. Hỏi nó tìm ai? Tìm Ðấng Tạo Ðoan. Cây trong rừng hoặc trong vườn bị che khuất còn biết nghiêng mình, nảy chồi đâm tược. Hỏi tìm ai? Tìm Ðấng Tạo Ðoan.(*)

Ấy là vật vô tri vô giác, còn người tại sao bỏ không đặng, hễ không bỏ Ðấng Tạo Ðoan đặng thì phải tìm tòi mãi, gọi là tầm Ðạo. Ðạo là cơ quan bí mật làm cho Trời Người hiệp một trong sự sống của Càn Khôn Vũ Trụ, nên con người vẫn đi tìm nguyên do sự sống ấy, xem thế tức là đi tìm Ðạo đó.(*)

Chúng ta buổi mới sanh ra còn anh hài không đủ trí thức xét đoán, chúng ta đã thấy gì? Thấy trước mắt vạn vật hữu sanh, đó chẳng qua là những bạn đồng sanh với chúng ta mà thôi. Khi được năm ba tuổi rồi, cả vạn vật đối với sự sống của ta rất hữu tình như thế nào, ấy là mức đầu tiên làm cho tinh thần con người tự tỉnh. Quan niệm của vạn vật đối với con người rất nên mật thiết, dầu vật ấy hung tàn đối với con người, tình thân ái giao hảo vẫn liên quan mật thiết. Chúng ta thấy cọp beo, sấu, hùm, gấu làm cho ta sợ sệt sự hung dữ của nó có thể hại sanh mạng của ta được, nên mới kiêng sợ như vậy. Ngoài ra toàn vạn vật đều có tình hữu ái đối với ta "Khuyển thủ dạ, kê tư thần, tầm thổ tư, phong nhưỡng mật". Ta thấy cả vạn vật ấy đối với ta rất có cảm tình, bởi lẽ đồng sanh, như đứa con nít con bướm đẹp đẽ thì mê lắm, tìm bắt, đến khi gặp con ong chích thì sợ sệt, mấy điều ấy làm cho con người tự tỉnh, đi tìm nguyên do của sự sống ấy, đó là khởi bước đầu sự tầm Ðạo.

Lớn lên chút nữa, biết ái tình chung trong gia đình hay xã hội, biết thân danh chung. Phận sự của người giữ Ðạo là giữ sự đồng sống trong khuôn khổ xã hội, tức nhiên tìm mối đồng sanh của cơ tạo đoan ấy. Thân danh ta đối với xã hội nhơn quần, ta thấy xã hội đối với ta như thế nào và ta phải đối lại như thế nào? Thật sự là tìm phương thế đặng tôn sùng sự sống chung của nhau mà thôi. Vì sự sống của vạn vật, của loài người sản xuất do Ðấng Tạo Ðoan là Chí Tôn, nên chữ Ðạo nó liên hệ mật thiết với loài người thế nào thì nó liên hệ mật thiết với Chí Tôn dường ấy, nên Ngài mới đến đặng thức tỉnh chúng ta biết, hiểu. Ngài là chủ của sự sống, đến đem sự sống lại, trừ diệt cho tiêu tan ác nghiệt. Ngài đem đến sự sống để trước mắt nhơn loại, như nhắc nhở họ phải tôn sùng cái sống chung của nhau. Hễ tôn sùng, tức nhiên phải nhìn Ðấng Tạo Ðoan đã ban cho chúng ta mạng sống, cho ta nhứt điểm linh quang, mới biết phân biệt hiền với ác, chánh với tà, để làm biểu hiệu cho con người thức giấc mê, tìm hiểu chơn lý của sự sống như thế nào, đặng trở lộn lại sống theo tinh thần của Thánh Hiền hay sống theo tánh hung bạo tàn ác của con vật. Cốt yếu đem cái sống Thánh Hiền ấy là cái sống của Chí Tôn ban cho, là vật báu để trong mình, vật ấy quí hóa không phải hèn hạ.

Giờ đây Chí Tôn đến mặt thế nầy, đặng làm cho nhơn loại biết tôn trọng sự sống ấy trong khuôn khổ của Chí Tôn định, hiệp tâm lý trở lại làm một trong tình thân ái đại đồng. Chơn Pháp của Chí Tôn đem đến với chúng ta đã 23 năm nay là vậy, nếu chúng ta đã mang danh thể của Ngài, trước chúng ta chẳng tự mình lập phương pháp làm kiểu mẫu cho thiên hạ nhìn Ðạo Cao Ðài là Chánh giáo, thế nào làm khuôn mẫu cho cả toàn tâm lý loài người đồ theo thì chúng ta thất hiếu cùng Chí Tôn lắm vậy.

Phụ ghi:
Cuối những đoạn có dấu (*): Ðể cho người đọc được dể dàng, chúng tôi xin mạn phép phân đoạn tại những nơi có dấu (*). Nguyên bản chánh không có phân đoạn tại những nơi ấy. Kính cáo.
Q. 2/11: THỂ CHẤT VÀ TÁNH ĐỨC CÁC HẠNG KHÁCH TRẦN.
Tại Ðền Thánh, đêm rằm tháng giêng năm Mậu Tý (dl. 24-02-1948)

Hôm nay, Bần Ðạo giảng về các hạng khách trần thể chất và tánh đức của họ, cốt yếu để dìu dắt cả thảy quan sát toàn thể Ðạo.

Ấy là phương hay để chúng ta có thể quan sát được mỗi hạng khách trần, trọng hệ nhứt là Thánh Thể của Ðức Chí Tôn tức nhiên là Hội Thánh. Vả chăng, chúng sanh nhứt là nhơn loại mỗi mỗi đều có đẳng cấp Thiêng Liêng tùy theo sự tiến hóa của chơn linh của họ, dầu tánh chất hay hình thể cũng tùy theo tiến hóa của chơn linh mà có riêng đặc tánh, riêng về hình thể của họ, chúng ta ngó thấy phương pháp của cổ nhân xem tướng người, đoán tánh chất, số mạng, cũng là nương theo đó.

Các hạng khách trần, Bần Ðạo duy nói về đẳng cấp và tấn hóa, nếu dám quả quyết, nói hẳn rằng: Mặt địa cầu nầy có 2.700 triệu người mà buổi nầy khuyết điểm bao nhiêu không biết, số ấy là trong thời thái bình. Trong 2.700 triệu nhơn sanh tức có 2.700 triệu tánh đức, chúng ta không thể gì đoán xét được, nhưng chúng ta có thể chia khách trần ra làm nhiều hạng:

Một hạng trước là hạng trái chủ, nghĩa là hạng thiếu nợ, hạng thiếu nợ là gì? Là những người gây ra nhơn quả đã nhiều. Luật nhơn quả để họ vô hàng cùng khổ của các chơn linh.

Hạng thứ nhì là hạng tác trái, nghĩa là người đã cho vay.

Hạng thứ ba là hạng du học, là các chơn linh đến mặt địa cầu tìm phương pháp đặng học hỏi, vì họ thiếu thốn, đến đặng thâu đoạt cái phần thiếu kia cho hay biết nhiều thêm đặng tấn hóa về chơn linh.

Hạng thứ tư là hạng ta bà du hí, du thực đến chơi rồi về, mà cái hạng ấy ít lắm, nếu có đi nữa thì phần nhiều chết yểu hết.

Còn một hạng nữa là hạng Thiên mạng, hạng Thiên mạng là hạng chơn linh cao cấp tức nhiên đã đạt phẩm vị cao trọng, vâng mạng đến thi hành lịnh của Ngọc Hư Cung hay của Lôi Âm Tự.

Bây giờ Bần Ðạo mới chỉ rõ hạng trái chủ là hạng thiếu nợ. Bần Ðạo quả quyết rằng, nếu ngó thấy họ ta đoán được ngay. Cái thói nghèo hèn cùng khổ dầu đến đâu cũng ra nghèo hèn, rán làm sang bao nhiêu cũng lộ cái nghèo hèn ấy, vì tánh đức họ hiện ra hình trạng xấu xa cho đến cách ăn mặc cũng vậy; họ sợ thiếu nợ nhưng hại thay họ đã lo đêm lo ngày, chạy tảo chạy tần, lo sống đủ mọi phương diện, nhưng chẳng phút nào họ được an hưởng tinh thần và tưởng tượng rằng mình có hạnh phúc. Có khi người trái chủ đó ấy đầu kiếp một lượt thì họ có phương thế làm đặng trả, là may duyên cho họ lắm; nếu rủi người chủ trái không đến thì họ phải đầu kiếp mãi tìm cho đặng người chủ nợ ấy, làm tôi mọi cho họ đặng trả nợ, ấy là một phương pháp mà các chơn linh hãi hùng sợ sệt hơn hết. Tánh đức của họ là thường lo cho mình được lợi mà thôi, nhưng không biết chừng nào đủ, đến đỗi trong ý muốn làm có của cho lung, cho nhiều để dành ngừa đó đặng có phương thế trả nợ, sợ một điều là buổi muốn trả mà không trả nổi. Tâm linh họ giục thúc như vậy. Họ hà tiện lắm, nhiều khi gặp được tình liên hữu với chơn linh nào mà họ gọi là chủ trái đến, lạ lùng thay, đối với cả toàn thiên hạ không thương yêu ai, mà nếu họ gặp người chủ trái ấy giục họ thương yêu, kính mến, chìu chuộng, bao nhiêu của cũng đem dưng hết cho người ấy. Có nhiều khi không có của họ đem cả thân sanh họ đặng đền trả nữa. Hạng thiếu nợ có tánh đức đặc biệt nhỏ nhen, chắt mót, không tưởng đến ai khác hơn mình, duy người chủ trái đến thì toàn cả cơ nghiệp đều để lại cho người đó, dầu muốn dầu không, hay là không hay biết cũng do tay người đó phá hoại hết sự nghiệp. Họ phát hiện ra có tánh chất buồn bực quạu quọ, không yên tâm, cứ lo lắng bậy bạ nhứt là hình ảnh của họ cùng khổ, bịnh hoạn luôn và thường chịu phận đê hèn. Ðó là hạng có quả kiếp.

Còn hạng chủ nợ có tánh cách đặc biệt là không biết lo gì hết, lơ lơ lửng lửng, ngày chí tối không biết đợi ai trả nợ, mà chắc mình có món nợ chúng sẽ trả, không lo gì cho họ cả, thả lình bình du hí du thực, không biết gì ráo cứ ngơ ngơ ngửng ngửng, không động tới ai, mà cũng không làm nên gì cho ai; mà khi nào chúng ta thuyết đạo với họ thì họ biết xu hướng, chịu nghe tưởng cái huyền linh nầy sẽ giúp mình đắc lợi gì. Họ đi chùa, đi miễu cốt cầu danh, nghe nơi nào linh hiển, đem nhang đèn tới cầu tài cầu lợi cho mình. Hình ảnh của họ, gương mặt bơ bơ mà lúc nào cũng tự tôn tự đại, mình là chủ nợ dầu nợ nhiều hay nợ ít cũng là nhà giàu rồi, và đặc sắc điều nầy là không sợ hao tài. Tánh chất sợ tội, sợ quả báo mà không biết trọng mình, thoạt nghe đó, tin tưởng đó, nhưng không phải tin tưởng đạo đức mà chỉ tin nơi huyền linh đặng cầu khẩn mà thôi lại có tánh chất ngớ ngẩn, trong mình không có tiền thì thôi, nếu có tiền mà ai nói vừa bụng thì lại móc đưa ra hết, có khi đưa rồi lại mắng người ta, đưa chẳng phải vì thiệt tâm mà đưa. Tánh chất của người chủ trái là vậy đó.

Bây giờ nói đến hạng du học, hạng du học bình thường cái gì cũng muốn biết, ham đọc sách vở kinh luật nhưng chỉ đọc qua loa rồi bỏ, ưa kiếm hiểu, ưa tọc mạch hơn ai hết, cái gì cũng muốn hiểu, cái gì cũng muốn biết, có khi nào họ mơ màng thì họ cũng muốn bỏ. Hạng du học thì nhiều mà lạ lùng thay, phần nhiều không tín ngưỡng, học cao đến đâu nếu đem đạo đức tinh thần mà nói, họ không biết gì hết, cứ cái chơn lý họ tìm mãi mà thôi, chính mình họ, họ cũng chẳng biết họ là ai, nhưng cũng là hạng tự tôn tự đại lắm, họ quyết đoán trong óc họ rằng không ai hơn họ được, cho là mình khôn hơn thiên hạ nên làm cao cách hơn ai. Gương mặt lúc nào đi cũng ngước lên người ta gọi là mấy cậu "trịch bồ lương" mà thứ đó lại nhiều hơn hết.

Hạng ta bà, nếu có thì chúng ta thấy liền, không động tới ai, không nói tới ai, cái sống, cái chết của họ cũng không cần biết, họ thường ở theo các chùa hoặc lên núi, một cõi một mình, chịu thanh tịnh mà thôi, còn đi chơi tìm lên non núi. Ta thấy trong các chùa chiền, họ bơ vơ dộng chuông, gõ mõ rồi nam mô lên, nam mô xuống. Hạng ta bà du hí nầy sống trên cõi trần nếu không vừa bụng thì thối lui về tức là chết.

Bây giờ các bạn muốn nghe hơn hết là hạng Thiên mạng. Hạng Thiên mạng, là hạng người không biết tầm lấy cho mình, chỉ lấy của mình lo cho thiên hạ, không biết tôn trọng hình hài của mình, chỉ tôn trọng thiên hạ, bởi vì hạng Thiên mạng cốt yếu tìm cả năng lực chỉ đạo cho thiên hạ làm môi giới tinh thần, ấy là một phương pháp giải cứu cho đời và bảo trọng nuôi nấng thiên hạ đó. Tánh chất như Lục Tổ bất động, bất trần, bất cấu, bất nhiễm. Có nhiều khi họ đến mà chưa có phận sự thì họ ngơ ngơ ngửng ngửng như khùng như điên. Ấy là khi chưa đắc thế, thiên hạ kêu là ba trợn ba nháng đó; một khi mà họ đắc thế rồi, quyết cứu độ thiên hạ thay thế cho Thiêng Liêng, vâng mạng lịnh Ðức Chí Tôn đến làm bạn với người đặng truyền Ðạo, thâu con cái của Chí Tôn về một mối. Phần đó ta có thể xem xét được trong Thánh Thể của Ðức Chí Tôn.

Mấy em nếu có gặp người khùng khùng điên điên phải quyết đoán là họ còn đợi thời và họ chưa tới thời đó mà thôi.
Q. 2/12: VIỆT NAM ĐƯỢC ĐỘC LẬP TRONG LIÊN HIỆP PHÁP
Tại Ðền Thánh, đêm 26 tháng giêng năm Mậu Tý (dl. 06-03-1948)

Hôm nay có tin lành nên Bần Ðạo lên giảng giải cho toàn Ðạo được hay biết.
Mới đây có tin vô tuyến điện cho hay rằng: Cựu Hoàng Ðế Bảo Ðại đã đem cho nước ta được độc lập và thống nhứt, vì nước Pháp có tuyên bố cho cả toàn cầu hay rằng đã chấp thuận rồi, duy còn ký kết bản hiệp ước với Pháp nữa là xong. Ðộc lập trong Liên Hiệp Pháp có nghĩa là văn hóa đã truyền bá các nơi, nơi nào có người Pháp. Trên địa cầu nầy người Pháp có nhiều thuộc địa, ngoài ra văn hóa Pháp cũng đã có ảnh hưởng đến các nước không phải là thuộc địa Pháp. Vậy, các nước nào không liên quan đến nước Pháp cũng có thể liên hiệp Pháp được. Liên Hiệp Pháp là hiệp các quốc gia lại cho cường liệt đặng bảo trọng cho các quốc gia chung nhau, bởi vậy nên trong Liên Hiệp Pháp, mỗi nước đều được tự chủ bình đẳng có quyền hạn như nhau, mặc dầu nước Pháp đã đề xướng, nhưng Pháp cũng chỉ là phần tử trong đó. Thật sự như vậy.

Bần Ðạo nói đây cốt yếu để vào tâm não cả con cái của Chí Tôn. Bần Ðạo sau 5 năm bị đồ lưu nơi hải ngoại được về, quyết đoán đem cựu Hoàng Ðế Bảo Ðại về xứ đặng thương thuyết tới độc lập cho nước nhà. Không phải hôm nay là việc tình cờ mà quả quyết đâu. Bần Ðạo xin nói rằng những hành tàng mà ngày nay kết liễu do Bần Ðạo đã biết trước từ năm 1927.

Bần Ðạo cốt yếu nhắc cho con cái Ðức Chí Tôn để trong trí rằng: "Không giờ phút nào Chí Tôn nói gì hứa gì với con cái của Ngài mà thất tín, thất hứa, thế nào cũng kết liễu mà thôi".

Con cái của Ngài nếu đủ khôn ngoan chịu khó ôn lại Thánh giáo của Ngài từ trước xem lại từ trương, từ lời Thánh huấn thì hiểu ngay rằng không hề sai suyển một mảy may nào cả.
Q. 2/13: ĐỂ CẢ ĐỨC TIN NƠI PHẬT MẪU.
Tại Báo Ân Từ, thời Ngọ ngày rằm tháng 2 năm Mậu Tý (1948)

Chúng ta luận một việc cần phải luận cùng nhau, nên chúng ta tin chắc rằng Ðức Phật Mẫu là Mẹ Sanh của chúng ta và cả vạn vật, nếu chúng ta tin và biết chắc như vậy thì chúng ta phải để cả đức tin nơi Người, theo ý Bần Ðạo tưởng cái gì về xác thịt thi hài nầy đều do Phật Mẫu đào tạo cả.

Ðức Ðại Từ Phụ duy làm cha của chơn linh chúng ta mà thôi, như cha mẹ phàm nầy, ông cha duy có nhứt điểm tinh còn huyết khí đều do bà mẹ đào tạo mà có, Ðức Chí Tôn duy cho nhứt điểm linh, còn tạo nên trí não và xác thịt của ta ra hình tướng là do tay của Phật Mẫu, hai cái quyền ấy rất cao trọng, hễ khôn ngoan muốn cầu xin cho đặng siêu thoát linh hồn, không ai hơn là Chí Tôn, còn về phần xác thịt nếu đau đớn khổ sở, mỗi mỗi cái đều xin Mẹ thì chắc hơn hết.

Có nhiều điều ta đến xin Mẹ thì Mẹ cho, chớ còn xin Cha thì không được, phải vậy không? Nhứt là phái nữ, tâm hồn thường phải nương theo Phật Mẫu một cách mạnh mẽ hơn nữa, hoặc sanh con cũng được mạnh giỏi hoặc chính thân thể mình không được cường tráng, hoặc đức tin còn yếu ớt sao không đến xin Mẹ, chỉ có Mẹ mới đủ quyền năng ban ơn ấy cho; còn như mấy em nhỏ, đã có vợ chồng thì nên đến phụng sự Ðức Mẹ mà cầu xin cho sanh đặng con tốt, cho Ðấng nào đến nơi cửa của mình sẽ là một chơn linh cao siêu, đó là biết khôn đó chớ, nếu chúng ta quả quyết có điều ấy thì tự nhiên sẽ có như vậy.
Bần Ðạo vẫn thấy nữ phái còn lạnh nhạt điều ấy lắm.
Q. 2/14: THIÊN CUNG CỦA MỖI CON CÁI ĐỨC CHÍ TÔN.
Tại Ðền Thánh, thời Tý đêm 19 tháng 2 năm Mậu Tý (dl. 29-03-1948)

Ngày hôm nay, Bần Ðạo giảng về Thiên Cung của mỗi con cái của Ðức Chí Tôn. Thiên Cung ấy, Chí Tôn có nói rằng: "Gia tài của các con, Thầy đã sắm sẵn". Gia tài ấy tức là Thiên Cung vậy.

Bần Ðạo nhớ lại buổi nọ, Ðức Chí Tôn biểu Chư Ðại Thiên Phong, nhứt là những môn đệ đầu tiên của Ngài bên Cửu Trùng Ðài, nên ta kể những vị ấy như là Thánh Tông Ðồ của Ðạo Cao Ðài vậy: như là Trung, Trang, Tương, Thơ, Nương, Ca đó là những vị đến lúc ban sơ khởi thể của nền Ðạo. Chí Tôn biểu: Các con phải lập họ hàng của mình, tức là biểu lập Thiên Cung tại thế. Thảm thay! Hồng ân ấy, Chí Tôn liệng trong tay mà không biết nắm, tức nhiên họ làm mất đạo nghiệp của họ vậy.

Thiên Cung của chúng ta mà Ðại Từ Phụ gọi gia tài dành để cho chúng ta, trừ ra đứa nào chê bỏ, Thầy mới đem cho đứa khác, Thiên Cung ấy là gì? Là các nguyên căn của Ðức Chí Tôn, là cơ tạo đoan Càn Khôn Vũ Trụ. Ðức Chưởng Ðạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn nói rằng: Ðức Chí Tôn buổi nọ có Thiên Cung riêng, Ngài dứt cả toàn Thiên Cung đó đến một chỗ chẳng có vật chi, rồi Ngài lấy dương quang đặng Ngài biến tướng ra và ban cho mỗi con vật một điểm linh tính tiếng Phạn gọi là Monade, còn ta gọi là nhứt điểm linh, điểm linh ấy tấn hóa vô biên vô giới, đi từ vật chất đến Phật vị, thì trong con người đi biết bao nhiêu kiếp sống liên quan mật thiết cùng nhau, do mỗi kiếp sống để tạo thành một gia tộc. Chúng ta sanh ở thế kỷ nầy có ông, bà, cha, mẹ, anh, em, bạn tác, vợ chồng, con cái, cả các cơ nghiệp hữu hình của chúng ta tạo tại thế nầy, sẽ trở nên cơ nghiệp nơi cảnh vô vi kia, đặng làm Thiên Cung của chúng ta. Vậy Thiên Cung là gì? Nếu chúng ta gọi là gia tộc vô hình thì phải gọi là xã hội, do đại nghiệp căn bản của chúng ta lập thành. Nếu chúng ta tưởng tượng trở lộn lại do lời của Ðức Chưởng Ðạo nói, thì Ðức Chí Tôn cũng vô một khuôn luật ấy, nhưng Ngài đạt Pháp, nắm cả bí mật vô biên đặng tạo càn khôn vũ trụ riêng, chẳng khác như ta đã thấy tấn tuồng hữu vi nơi mặt thế này, cũng làm con, làm cha, mà ta thấy cha ta tạo nghiệp thế nào, thì ta cũng bắt chước như thế ấy. Hình trạng Ðức Chí Tôn đã làm thì ta sẽ làm theo, hay là ta đã làm rồi nơi cảnh vô hình, Ðức Chí Tôn đã dành để cho ta mà ta chưa hề biết như vậy, ta chỉ biết giờ nầy mà thôi, đến khi bỏ xác thú rồi, trở lại cảnh vô hình, mới biết ta có một đại nghiệp.

Bởi vậy cho nên buổi sanh tiền trong kiếp sống của ta đây: Ăn để sống tranh giành đặng nuôi con thú, tức là thú hình của ta mà quên lảng cả đại nghiệp. Không có thảm trạng nào hơn là ta quên mình hiểm nguy, nên Chí Tôn rất thảm khổ thấy ta chìm đắm trong trường đời. Ta thử tưởng tượng như ta làm cha mẹ đương giữ đại nghiệp cho con, phần hương hỏa đó rất vĩ đại, trong thời buổi còn niên thiếu cho nó đi ra ngoại quốc du học rồi lúc ở ngoại quốc nó không đủ phương sanh sống, cái gia nghiệp ấy nó chưa được hưởng mà không ai giúp đỡ tự nó tìm kế làm thuê làm mướn với tài hay mà sống. Nếu nó sống được với nghề hay nghiệp giỏi, với cái thiệt tài của nó thì không nói gì, ngặt một nỗi nó không sống được theo phương pháp quân tử, nó phải hạ mình xuống đi ăn trộm ăn cướp bạo tàn, điếm đàng, lường dối, làm đủ tội lỗi với phương sống đê hèn đó của đứa tiểu nhơn, thì ta thử hỏi ông cha hay bà mẹ cầm cái đại nghiệp ấy, sẽ đau đớn thương tâm như thế nào chớ?

Thật ra Ðức Chí Tôn cũng dường đó, một đám nhơn sanh như chúng ta đây, Ông đã nói: Của mỗi đứa con Ông còn giữ một đại nghiệp, đại nghiệp ấy không phải của Ông cho, mà là của tự mình chúng ta tạo dựng, nhưng chúng ta lại nỡ quên phứt nó đi, để cho thân thể ra hèn tiện, khổ não, truân chuyên, mà cái đại nghiệp kia ta lại không thể bảo trọng được. Nếu đương đầu với mạng sống mà ta không tự tỉnh, kiếm phương pháp sống cho chí thành, rủi tìm cái sống theo quỉ pháp, thử hỏi Ðức Chí Tôn sẽ đau đớn như thế nào nữa? Thầy đã nói: "Gia tài của các con Thầy không bao giờ lấy cho kẻ khác, kỳ dư kẻ nào chê bỏ". Nếu chúng ta thất nghiệp cả của cải phụ ấm do nơi ta đào tạo ấy mà ta trở bước hưởng lại không được là tại nơi ta từ chối, tự ta quên mình mà từ bỏ cái đại nghiệp ấy. Ta sống một trăm tuổi có nghĩa gì đâu? Ví như mỗi phen có một đám xác đi qua, thì dường như người quá cố nhắc nhở ta một điều gì? Người chết ấy nói với ta rằng: "Tôi đi đây là đến cảnh thiệt, còn quí ngài ở lại đó là cảnh giả đa nghe!". Phải sáng suốt đặng phân thiệt giả, mới bền giữ cơ nghiệp thiêng liêng, chớ đời sống phàm gian là một khổ hải đa nghe!

Nhơn loại bao giờ mới tỉnh cơn mơ mộng tàn ác mà tìm cho được cái sống Thánh đức cao siêu? Vì cớ cho nên mỗi đứa chúng ta, dầu lao khổ, truân chuyên, dầu nhiều phen bị khảo đảo khổ hạnh, mà dường như tinh thần ta thấy khoái lạc hơn nữa, là tại sao vậy? Tại ta biết rằng sự khảo đảo hình xác nầy không phương gì mà động chạm đến phạm vi đại nghiệp của ta kia đặng, bất quá là bóng dáng mà thôi, mà hễ không động đến được thì ta biết rằng ta có thể bảo thủ được, không sợ mất của thiêng liêng ta đã sẵn có.

Nếu cả mấy em biết nghe theo chơn lý vô cùng vô tận của thiêng liêng hằng sống ấy, bảo trọng được cái cảnh thiệt tướng ấy thì hay hơn là trọng cái sống của thế tình mơ mộng. Mấy em chỉ nên sợ một người mà thôi, ngoài ra dưới thế gian nầy không còn sợ ai hết. Kẻ nào có quyền thế thì chỉ có giết chết thân ta là hết chuyện. Còn các em, các con, phải sợ người mà chẳng những có thể giết thi hài của mấy em, mấy con, mà còn tận đọa tam đồ chi khổ, lại còn truất cả đại nghiệp của mấy em và mấy con nữa. Người ấy là Ðại Từ Phụ vậy

Q. 2/15: NHIỀU KẺ ĐƯỢC GỌI MÀ ÍT NGƯỜI ĐẾN.
Tại Ðền Thánh, thời Tý đêm 21 tháng 2 năm Mậu Tý (dl. 31-03-1948)

Nói về chữ hiếu thật là quá rộng rãi bao la, nên Nho giáo nói không hết được. Ví như có câu rằng: Quạt nồng ấp lạnh, nghĩa là khi cha mẹ nóng nực thì quạt cho mát, khi cha mẹ lạnh thì đắp cho ấm, đó là câu nói để tỏ tâm hiếu của con cái theo thế thường tình nhỏ mọn mà thôi, chớ đối với Phật Mẫu không có một điều gì ta làm đặng đền công sanh thành dưỡng dục của cha mẹ mà gọi là hiếu, bởi mình không phương thế trả cái hiếu ấy đặng bao giờ. Vì vậy mà sách Nho tả không hết được.

Ấy vậy, có hiếu tức là phụng sự cho cha mẹ đủ mọi phương diện theo hoàn cảnh của mình. Làm con mà muốn nói mình có hiếu mà Ổng mặc kệ Ổng, mình mặc kệ mình, có khi cả đôi tháng hoặc suốt năm không thăm viếng, đợi tin chết đặng về để tang, bằng không chết thì thôi, Ông Bà sống tự họ, mình sống tự mình.

Rủi nghe ai nói: Ông Cha bị cảm nặng, bị lạnh rét sao chú nó hoặc cô nó không về thăm thì lại nói rằng: "Tôi cũng lạnh gần chết tôi đây, nhà tôi ở xa, ổng lạnh ổng ở nhà, tôi đi đường xa đây tôi còn cảm nặng đau hơn ổng nữa" vậy. Ðối với cha mẹ mình phải báo hiếu trọn cả kiếp sanh cũng chưa vừa, càng khổ não, khó khăn chừng nào thì tâm hiếu ấy mới quí, mới trọng.

Ðối với Chí Tôn cũng thế. Ðêm hôm qua đi cúng chỉ có một ít người thôi, đó là tâm đạo theo Trời mưa nắng! Lại đổ thừa đi mưa sợ cảm sổ mũi nhức đầu. Tội nghiệp Chí Tôn rủi có lạnh không ai đến cho mà chớ, mà Người chắc không lạnh nên không cầu lụy chi mình, chỉ mình không hưởng ơn riêng, sợ buổi trút hồn là khổ não.

Trong Thánh Giáo Gia Tô có câu chuyện như thế nầy: Ðức Chúa Jésus Christ nói: "Nhiều kẻ được kêu mà ít người đến" (Il y a beaucoup d'appelés mais peu de venus) ý nói rằng con cái của Ðức Chí Tôn thì nhiều mà hạng đặng siêu rỗi vẫn ít. Có người đó cũng có học thức nghe vậy tức mình nói: "Ðấng Cứu Thế đến siêu rỗi thì siêu hết, chớ có lý nào kêu lại không đến, Thánh giáo nói làm sao vậy chớ?" coi bộ bất bình lắm.

Ðến ngày lễ Ðức Chúa Giáng Sinh, tuyết trời lạnh lắm, mà anh ta cũng làm chức trùm hay cậu gì trong Ðền Thánh đó, nhưng đến buổi lễ thấy Ðền Thờ trống trơn. Ông Cha mới kêu anh ta lại, vừa cười vừa nói rằng: "Nhiều người kêu mà ít kẻ đến là vậy đó." Anh ta nhớ lại lời mình vấn nạn khi trước, bắt thẹn thuồng mắc cở.

Nếu nền Ðạo của Chí Tôn phải tùng theo sự nồng lạnh mà thạnh hay suy, thì đây về sau, Bần Ðạo tưởng nếu trời mưa miết ắt diệt Ðạo Cao Ðài nầy đặng có phải?
Q. 2/16: VẬN MẠNG CỦA NƯỚC VIỆT NAM HIỆN THỜI.
Tại Ðền Thánh, đêm 23 tháng 2 năm Mậu Tý (dl. 02-03-1948)

Ngày nay Bần Ðạo hạ san một lần nữa, bởi vấn đề tương lai, vận mạng của nước Việt Nam chúng ta tới giai đoạn rắc rối không giải đặng.

Bần Ðạo phải liệu một giải pháp nào đặng làm cho thái bình đặng cứu vãn tình thế của nòi giống Việt Nam, bằng chẳng vậy thì như trước mắt chúng ta thấy trường lưu huyết vô lối mà tàn sát chúng sanh rồi đó. Khi Bần Ðạo bị đồ lưu hải ngoại (Madagascar) trở về thấy thời cơ đang rối rấm, cuộc cờ nước nhà đã lâm vào lối bế tắc không thế thắng được. Nhưng nhờ đức tin vững vàng nơi Ðức Chí Tôn mà Bần Ðạo tìm phương thế xóa bỏ bàn cờ nầy, sắp làm bàn cờ khác giao cho họ giành, nhưng họ đi thế nào mà tới đây lại bị bí nước nữa. Nước bí nầy thật là khó gỡ, mà cũng theo đức tin quá mạnh nơi Ðức Chí Tôn, Bần Ðạo tìm giải pháp đặng thí nghiệm, đắc thành chăng là do nơi ở nhà cầu nguyện cho giỏi, để tâm mỗi ngày đừng lo ra, đem cả tinh thần thống nhứt lại cầu nguyện cho Bần Ðạo làm được đắc thành kết liễu.

Tấn tuồng nầy rắc rối chẳng khác như Bần Ðạo nói bóng, rán tìm hiểu, trong gia đình một ông cha cầm cái giấy nợ từ lâu mà đòi không đặng, nhà lại nghèo khổ, con cháu anh em tông tộc rầu buồn, có một chú ba nài (cornac) cũng cha Hồ chú Nhẫn gì đó, đến dụ dỗ nói rằng: Có thể đủ tài năng đòi nợ, rồi thâu đoạt giấy nợ đi, vị Trưởng Tộc tính đòi đặng giao cho nó cái chủ quyền đó, rồi ra khỏi nhà của mình, chú ba nài đòi không ăn thua gì cả, đáo để nợ đòi không được mà trong Tông đường hao tốn tiền của mồ hôi nước mắt nữa. Ông Trưởng Tộc mới tính về đòi lại, cái chú ba nài kia nhồi sọ cả Tông đường đó nghe lời của chú. Ông Trưởng Tộc muốn về thì chủ nợ nói: "Ông hỏi cả Tông đường của ông, nếu nhìn cái quyền của ông thì tôi trả cho". Còn đối với Tông đường đó thì chú lại nói: "Coi chừng ổng về đòi rồi ổng lấy luôn một mình ổng đa". Hiện giờ phải giải quyết làm sao cho người thiếu nợ phải trả, làm sao cho ông Trưởng Tộc đó minh biện cho người phải trả, hai vấn đề đó Bần Ðạo cần giải quyết trong chuyến đi nầy.

Q. 2/17: ĐÒI LẠI CHỦ QUYỀN CỦA NƯỚC VIỆT NAM.
Tại Ðền Thánh, đêm rằm tháng 3 năm Mậu Tý (1948)

Sau khi Bần Ðạo đã làm xong phận sự đối với quốc gia Việt Nam, với chủng tộc Việt Nam y như Thánh ý của Ðức Chí Tôn đã hứa hẹn từ trước, Bần Ðạo để lời cám ơn toàn thể con cái của Ngài.

Chư Chức Sắc Thiên Phong Thánh Thể của Ðức Chí Tôn cũng vậy, và toàn Ðạo Nam Nữ cũng vậy. Cả thảy đều giúp Hộ Pháp một cách huyền bí, không phương gì tả đặng. Sự liễu kết cho tương lai quốc gia nòi giống nầy, quả quyết chắc chắn do trong khối óc của Thánh Thể của Ðức Chí Tôn và toàn thể con cái của Ngài sản xuất đó vậy, có một điều lạ chướng mà Bần Ðạo không phương suy nghiệm đặng, là khi Bần Ðạo hạ san với giải pháp mới trong tay, cầm xuống kinh thành thì Bần Ðạo tưởng rằng sẽ gặp điều khó khăn, không thể giải quyết đặng với nhà chưởng quyền của Ðại Pháp. Trái ngược lại, Bần Ðạo thấy một tinh thần của một nòi giống công chánh, đã hiển nhiên hiện trước mắt Bần Ðạo, là người đã thấu đáo việc mình đương hành động và người ta đợi mình nói việc mình đang làm đó, mà mình lại không nói, không làm cho người ta hiểu. Có lạ gì, tình trạng của một nước đã đánh tan quân chủ, lập nên dân quyền làm đầu vạn quốc, về Pháp Chánh ấy mà người ta tức tại sao toàn cả quốc dân Pháp lại tự nhiên coi dân chủ là trọng, mặc dù muốn hay không mà Pháp Chánh buộc thì người ta phải tôn sùng, tức là xu hướng theo đó. Lại nữa vạn quốc còn để mắt coi hành tàng của người ta là lẽ tự nhiên, đó là điệu nghệ sở trường, họ muốn đến bảo thủ mà khỏi mỉa mai miệng thế, nhưng công chánh của nhà chưởng quyền nước Pháp sẵn có, chúng ta chỉ nhắc lại mà thôi. Ðại nghiệp của Việt Nam người Pháp đã lấy trong tay của nhà vua, thì phải trả lại cho nhà vua, không thể trả lại cho ai khác đặng, mà ít nữa trả cũng có người đứng lên nói chớ. Người ta đợi mình nói, mà mình không nói, vì vậy mà hai năm nay chiến đấu bằng một cách vô lối. Trái ngược lại Bần Ðạo đã đến giáp mặt và đã thấy thiên hạ hưởng ứng nhìn nhận chánh lý lời nói của mình là nước Pháp sẽ trả độc lập và thống nhứt cho nước Việt Nam.

Lạ lùng thay! Con đường khó mà thành dễ. Còn bây giờ tới đoạn đường mình tưởng dễ mà thành ra khó, là nhà vua của mình là Bảo Ðại chần chờ chưa quyết định, làm khó, trở ngại người ta, nghĩ cũng buồn cười, nhưng dù sao Chí Tôn cũng đã định sẽ kết liễu y như Thánh ý của Ngài, không khi nào sai chạy đặng.

Bần Ðạo đã thường giảng rằng: Dầu cá nhân, dầu gia đình, dầu quốc gia, xã hội, dầu cho toàn thể nhơn loại trên mặt địa cầu nầy phải chịu trong khuôn luật quả kiếp của tòa chánh trị và Ngọc Hư Cung, là Tòa Tam Giáo đang nắm quyền Càn Khôn Thế Giái rất nghiêm khắc và oai quyền, oai lực ấy vô đối, không quyền năng nào đối thủ đặng. Trên quyền ấy có mấy vị Phật thuộc Cực Lạc Thế Giới vi chủ quả kiếp, nên dù cho Chí Tôn cũng không sửa cải định án của họ đặng.

Ta thấy ngày nay, toàn quốc dân Việt Nam đương oằn oại trong sự thống khổ cốt nhục tương tàn, ta thử xét cao hơn nữa, thì ta thấy quả kiếp dựng hình tướng các đời Ðinh, Lê, Lý, Trần, Lê tới ngày nay ta thấy giống nòi Việt Nam gây ra biết bao nhơn quả. Ta xem cộng thử Việt Hớn mà đoán buổi sau nầy nào là Tây Sơn, nào là Mã Ngụy, hễ có vay ắt có trả, tấn tuồng ngày nay diễn lại là tấn tuồng tổ tiên đã làm hồi trước. Một quốc gia diệt Tây Sơn thế nào, thì ngày nay cũng diễn lại y như thế ấy. Quả kiếp đã xuất hiện rồi, ta trách ai, ta phiền ai, ta than khổ với ai, trước đã làm nay phải chịu! Cho đến nước, cái Ðại nghiệp Thiêng Liêng do Ðức Chí Tôn đến tạo nơi mặt thế nầy, mà cũng phải chịu ảnh hưởng hay không cũng nguy khốn mà chớ.

Nếu Bần Ðạo không thủ pháp cho oai nghiêm, thì cũng chẳng khỏi sự tranh quyền đoạt vị trong cửa Ðạo nầy. May thay! Bần Ðạo có đủ oai quyền vay trở các quả kiếp ấy, làm cho Thánh Thể của Ðức Chí Tôn khỏi bợn nhơ quả kiếp, mà tránh được Thiên điều. Rồi đây, chúng ta mở mắt coi lịch sử của Ðời và lịch sử của Ðạo, cũng như hình với bóng, y như nhau không phương nào khác được.

Q. 2/18: QUỐC ĐẠO KIM TRIÊU THÀNH ĐẠI ĐẠO,
NAM PHONG THỬ NHỰT BIẾN NHƠN PHONG.
Tại Ðền Thánh, đêm mồng 1 tháng 4 năm Mậu Tý (1948)

Bữa nay Bần Ðạo giảng một vấn đề trọng yếu nhưng chẳng giảng một bữa mà đủ, nên cần phải tiếp tục nhiều lần Bần Ðạo mới giảng dứt. Sau một buổi lễ cúng rồi, thì giờ lên giảng đài rất ít, Bần Ðạo phải thúc nhặt lại là vì mỗi lần hành lễ rồi cả thảy đều mệt. Bần Ðạo sẽ liệu phương sắp đặt lại là giảng trước giờ hành lễ. Theo trong bài thi của Ðức Chí Tôn gởi cho Hoàng Ðế Bảo Ðại có hai câu yếu trọng cho nền Thánh giáo Chí Tôn hơn hết là hai câu nầy:
"Quốc Ðạo kim triêu thành Ðại Ðạo
Nam phong thử nhựt biến Nhơn phong"

Hai câu nầy chúng ta hiểu rằng, Ðức Chí Tôn muốn nói với Ngài Bảo Ðại nền Quốc Ðạo của Người, ngày nay đã thành Ðại Ðạo, trong chữ Ðại Ðạo bao trùm cả đức tin loài người, câu thứ nhì "Nam phong thử nhựt biến Nhơn phong" chữ phong không phải là gió, nó có nghĩa lý lắm! Phong đây là phong tục, Chí Tôn muốn nói phong tục nước nhà của Người sẽ làm nền phong hóa của loài người, hai câu ấy chúng ta nên đoán xét, suy gẫm coi Ðức Chí Tôn vì thương mà quá lời không? Thảng như Tôn giáo nào kích bác họ sẽ nói Chí Tôn tự tôn, tự trọng, hay là họ có đức tin hơn nữa họ có thể họ bàn luận rằng:

Chí Tôn vì quá thương mà nói. Vậy chúng ta thử coi nền Quốc Ðạo của chúng ta sẽ trở nên nền Tôn giáo của toàn cầu chăng? Và phong hóa chúng ta có thể thay thế cho cả nhơn loại trên mặt địa cầu nầy chăng? Chúng ta nên quan sát, suy gẫm rồi tưởng tượng coi có thể đặng vậy không? Có thể được và Bần Ðạo tin quả quyết rằng nó phải như vậy đó. Tội nghiệp thay! Một sắc dân đã từng bị nước Trung Hoa khắc phục, tuy chịu trong hoàng đồ, chúng ta có một lịch sử trong 4.000 năm tranh đấu, vẫn tự do, độc lập không chịu tùng mạng lịnh của Trung Hoa. Nước chúng ta như cái vải áo, còn Trung Hoa như cái áo, chúng ta không có lý lẽ gì từ chối tinh thần một sắc dân anh dũng ấy, nó phải nương cái năng lực nơi chỗ nào? Ấy là nương tinh thần Ðạo giáo nước nhà của nó, chúng ta phải chịu ảnh hưởng trọng hệ hơn hết của hai nền Tôn giáo Trung Hoa thọ giáo Ấn Ðộ dạy chúng ta tu cho được chí thiện, chí nhơn, Phật giáo bên Ấn Ðộ dạy chúng ta tự tu đặng đạt đại từ đại bi. Hai cái khối tinh thần hiệp nhau lại làm một nền Tôn giáo, để được bảo trọng tinh thần quốc túy của mình.

Chí Tôn đã nói cùng người Pháp: Từ thử một sắc dân ấy chỉ biết nô lệ chưa biết vi chủ, vì vậy mà Ta đến bồi thường sự bất công ấy, Ðạo giáo đã dạy chúng ta chí thiện chí nhơn, đại từ đại bi, tinh thần đó vậy, hỏi vậy ngày nay chúng ta phải tùng hay chăng? Tôi dám chắc giọt Cam Lồ ấy, tinh thần loài người đã khao khát, để bảo tồn sanh mạng, bằng chẳng vậy thì nhơn loại phải tự diệt mà chớ.

Tại sao tự diệt? Chúng ta thấy trường hổn độn một nền văn minh gồm có tinh thần duy vật mạnh mẽ mà chớ, cái chánh sách của loài người chạy theo duy vật đương nhiên thì mặt địa cầu này chưa hòa bình vì họ chỉ biết tranh sống với duy vật, chớ chưa sống với tinh thần chí thành, cái quyền năng của Ðạo giáo Gia Tô mạnh mẽ dường nào mà ngày nay phải thoái bộ trước năng lực của toàn cầu, còn Ðạo giáo mà đến thay thế đặng cái năng lực ấy, rồi đây cũng chưa chắc quyết thắng tấn tuồng tương lai, mà vật chất sẽ dẫn đến con đường tử lộ không phương cứu chữa, duy có Ðức Chí Tôn đến cứu loài người mà thôi.

May thay! Trong nòi giống tổ phụ chúng ta để lại một tủ thuốc, tủ thuốc ấy ngày nay lấy ra làm món thuốc cứu cả tinh thần nhơn loại trong hoàn cầu này và trong tủ thuốc thiêng liêng đó để làm vị cứu sanh, tức nhiên là cái phương cứu khổ chẳng khi nào sai chạy. Nhưng vì chẳng đủ năng lực để cứu thế, đem hoàn thuốc hằng sống ấy bảo tồn sanh mạng loài người.
Q. 2/19: Giảng tiếp câu Thánh ngôn:
QUỐC ĐẠO KIM TRIÊU THÀNH ĐẠI ĐẠO,
NAM PHONG THỬ NHỰT BIẾN NHƠN PHONG.
Tại Ðền Thánh, đêm mồng 5 tháng 4 năm Mậu Tý (1948)

Bần Ðạo ngày nay giảng tiếp câu Thánh ngôn "Quốc Ðạo kim triêu thành Ðại Ðạo" của Ðức Chí Tôn, giảng hôm kỳ lễ vừa rồi. Bần Ðạo để đại khái đề mục cho toàn cả tiềm tàng thử coi nền Tôn giáo của chúng ta sẽ biến tướng ra thành Ðại Ðạo là chỗ nào? Nó đã đem cái gì cho nhơn loại về mặt tinh thần đạo đức mà biến ra đại đồng. Chúng ta đã ngó thấy nguyên do Ðạo giáo bao giờ loài người phải chung họp lại với nhau, nào xã hội, nào là gia đình, dầu trong buổi ăn lông ở lổ loài người chẳng hề qua mặt luật thiêng liêng đó đặng. Buổi ấy, tất cả có bí pháp, hội họp gia đình; Ðức Chí Tôn duy có một mình, Ngài phân ra mới có Phật Mẫu, Ngài phân ra đệ nhị quyền hiệp lại đệ nhứt quyền, đủ quyền năng tạo ra Càn Khôn Vũ Trụ để lập gia đình cho loài người đó vậy. Nhờ Chí Tôn phân tánh là bí pháp lập thành xã hội đó, chúng ta đã hằng tưởng hiểu cả, loài cầm thú phải có hiệp lại mà biến sanh được, giải rõ là trống mái, đực cái hay nam nữ vậy, nó tương liên trước mặt chúng ta, hoặc một cách âm thầm bí mật, vậy loài người bao giờ cũng có xã hội nhơn quần, gia đình, vì mặt luật buộc như vậy, lời chúng ta thường nói: "Chưa ai ở đất nẻ mà chun lên".(*)

Mỗi cá nhân đều có nguyên do căn bản. Hại thay! Xã hội bình quyền tức nhiên mặt địa cầu ngày nay bị một quyền năng vật chất ấy nương với quyền năng tinh thần mà loài người đạt đến địa vị cao trọng và đạt cơ mầu nhiệm của tạo đoan, đời có triết lý, khoa học làm cho đảo lộn tinh thần, họ làm rồi họ tự kiêu là làm chủ cả cơ quan bí mật của loài người, tự khoe mình là Trời; tự kiêu, tự đắc, tự tôn, tự đại, chúng ta đã thấy họ từ chối mọi lẽ thiên nhiên. Ngày giờ nhân loại xu hướng theo phương pháp vật hình, quyền năng khoa học, lý thuyết quái gở dị đoan ấy, làm cho tinh thần loài người ngu xuẩn, cho rằng không Trời, không Ðất, tức nhiên không Ðạo, không người, không xã hội, không gia đình; sống như con vật chung hiệp với nhau đồng sống vậy thôi. Sống không quyền lực tinh thần vi chủ, không thể nào nhơn loại tự bảo tồn cho dân chúng đặng mà tránh khỏi nạn tiêu diệt, họ coi mạng sống của loài người là một vật dụng, để hưởng hạnh phúc sung sướng, lường gạt, buộc tinh thần loài người làm nô lệ cho vật hình, chúng ta thấy tấn tuồng nguy ngập, xô đẩy loài người đi đến diệt vong.(*)

Tổ phụ chúng ta sống từ thượng cổ đến nay 3.000 năm, một vị chí Thánh để lưu lại cho đời mực thước niêm luật xã hội, nhơn quần, Ngài định phải có gia đình, có tông tổ, có xã hội, Ngài lập pháp trọn trong điều ấy, từ thường dân chí Vương Ðế, không ai ra khỏi mặt luật.

Tổ phụ chúng ta chịu Ðạo giáo để lại sự thờ phượng tông tổ gia đình chúng ta, tức nhiên thờ kẻ quá vãng, ta coi người chết như sống, chúng ta tôn sùng mạng sống của con cái Người, vì loài người là Thiên hạ mà Thiên hạ là Trời.

Chúng ta biết nhìn nhận Trời trên mặt địa cầu, chúng ta biết thờ phượng Trời, tức nhiên thờ loài người đó vậy. Ðạo giáo chúng ta để lại 2.000 năm, vậy điều trọng hệ là thờ Trời và thờ Người, buổi hổn độn nầy, nhơn loại vì khoa học mà đi đến một đường tử lộ. Chúng ta cần đến Ðạo giáo phô trương trên mặt địa cầu nầy cho nhơn loại họ biết tự tỉnh để trụ cả tánh loài người lại, hưởng hoàn thuốc cứu sanh mạng họ.

Bần Ðạo giảng lần trước, tiếp kỳ nầy kết luận là huờn thuốc thờ Trời và thờ Người, thảng vạn loại phản phúc mà còn chối nữa thì chịu tận diệt mà thôi.

Phụ ghi:
Cuối những đoạn có dấu (*): Ðể cho người đọc được dể dàng, chúng tôi xin mạn phép phân đoạn tại những nơi có dấu (*). Nguyên bản chánh không có phân đoạn tại những nơi ấy. Kính cáo.

Q. 2/20: Giảng tiếp câu Thánh ngôn:
QUỐC ĐẠO KIM TRIÊU THÀNH ĐẠI ĐẠO,
NAM PHONG THỬ NHỰT BIẾN NHƠN PHONG.
Tại Ðền Thánh, ngày 14 tháng 4 năm Mậu Tý (1948)

Hôm nay Bần Ðạo giảng tiếp Thánh ngôn của Thầy câu: "Quốc Ðạo kim triêu thành Ðại Ðạo, Nam phong thử nhựt biến Nhơn phong". Chúng ta quan sát coi nền Quốc Ðạo của chúng ta có phương thế gì để làm một nền Tôn giáo cho hoàn cầu?

Ðương nhiên bây giờ, cái tinh thần của loài người chỉ xu hướng theo trí thức đương nhiên của họ. Họ có thể được cái hành vi bí mật thiêng liêng mà lập nên cơ giới phi thường ở mặt địa cầu nầy. Nhưng cái cơ giới ấy do nơi hóa công sản xuất ra tâm não của kẻ trí thức thông minh đặng bảo vệ sanh mạng của loài người và lập hạnh phúc cho loài người.

Trái ngược lại, những hạng trí thức thông minh ở trong thời đại nầy, đều nảy sanh do một tâm lý khoa học mà thành hình, rồi tâm lý khoa học ấy trở lại tàn sát sanh mạng của loài người, đó là đến những cảnh bạo ngược. Hơn nữa, trước mắt chúng ta đã ngó thấy hai trận giặc trên hoàn cầu đã giết hại nhau, nên hiện giờ trên mặt địa cầu đã tự giết chết bao nhiêu mà kể.

Cái trí thức tinh thần ấy có làm gì cho đồng bào và thời đại nầy đặng hạnh phúc chăng? Trái lại, nó đem cho đời một tấn tuồng thống khổ trước mắt cả thảy. Bần Ðạo chỉ nhắc lại cho con cái của Ðức Chí Tôn thấy rõ, nhơn loại hiện nay đã xu hướng theo hạng trí thức tinh thần khoa học thì có kể đâu là thương chủng tộc, nên ngày nay đã gây ra biết bao tấn tuồng thê lương thảm đạm, nhơn loại hết yêu ái nhau, mà trái lại người với người họ đối nhau còn quá hơn thú dữ, người với người mà họ chưa biết tôn trọng mạng sống với nhau, họ lại đoạt mạng sống của nhau đặng tìm hạnh phúc.

Mặt địa cầu nầy, sanh ra các đảng phái nào thì chỉ biết tương tàn tương sát với nhau mà thôi, họ không kể gì là sanh mạng của con người ra thế nào cả. Họ không biết tôn trọng mạng sanh của loài người, họ chỉ biết lấy xương cốt của loài người mà lập đài danh dự của họ thôi. Cái mục đích bạo tàn của họ, chúng ta đã thấy hiển nhiên trước mắt, cái thảm khổ của đời mà chưa hề có ai thấu rõ tâm lý khổ não của đời, đem lòng thương hại đến nhơn sanh.

Từ Phật giáo ra đời đến bây giờ, tinh thần của loài người mới biết thương hại cho nhau, một nơi nào có một tâm hồn ưu ái thì các Tôn giáo đương nhiên trước kia là một huờn thuốc để cứu chữa cái bịnh thảm khổ của loài người nơi mặt địa cầu nầy, nhưng nay huờn thuốc cứu chữa ấy để tại mặt thế nầy, nó không thể trị đặng một bịnh tinh thần, khoa học đương nhiên của họ đã sản xuất trên mặt địa cầu nầy. Thử hỏi chúng ta có đem gì hạnh phúc cho họ không? Chúng ta chỉ biết đem hai chữ nhơn nghĩa mà lập nền hạnh phúc cho họ thôi.

Tuy vậy, nòi giống của chúng ta là một sắc dân chiến đấu, một sắc dân oanh liệt, từ xưa tổ phụ ta biết hiền lành, biết kỉnh trọng, biết thương yêu, kỉnh trọng mạng sống của loài người lắm, cái tánh thông thái, cái tánh thông minh của tổ phụ của chúng ta sản xuất trong một nguồn cội từ lành, không điều gì đem đến trước mắt tổ phụ của chúng ta, mà tổ phụ chúng ta tìm tòi không đặng.

Nước Việt Nam ở trong khoản đất phì nhiêu nên tổ phụ chúng ta biết trọng sanh mạng con cái của Trời, biết nhận nhơn loại là anh em, là cốt nhục, đồng chung mà ra, biết nhìn câu: "Tứ hải giai huynh đệ"; tổ phụ ta biết thương yêu nhơn loại, bất kỳ là một sắc dân nào, một nòi giống nào có trí thức cao minh làm cho loài người đặng hạnh phúc thì tổ phụ ta kỉnh trọng tôn thờ vậy. Một nền Tôn giáo nào đến nước Việt Nam ta truyền bá thì tổ phụ ta kỉnh trọng tôn sùng ngay. Nên mối Ðạo nào vào nước Việt Nam ta đều được kết quả mỹ mãn. Lòng mộ Ðạo của tổ phụ ta trước kia lấy lương thiện làm căn bản, lấy nhơn nghĩa làm môi giới, cái sự tôn nghiêm của tổ phụ ta từ thử hiển nhiên chúng ta đã ngó thấy.

Trong nước hiện giờ thì có các Ðạo giáo thanh liêm chánh trực đang làm cha mẹ cho dân, cái tinh thần tạo hạnh phúc cho dân, một trang anh dũng biết bảo trọng nền quốc túy, nâng đỡ nước nhà, biết tôn sùng nhơn nghĩa, chúng ta đã ngó thấy các Ðạo giáo của chúng ta đem cái nhơn nghĩa làm huờn thuốc liệng vào tâm lý của loài người là có thể trị đặng cái tinh thần bạo ngược của họ.

Nhơn loại vì quá ỷ tài sức nương theo cái tinh thần khoa học mà làm mất cái tinh thần căn bản nhơn luân. Nên nay ta đem cái đạo nhơn nghĩa mà thức tỉnh loài người, đặng cho họ nhìn với nhau vì danh nhơn nghĩa hầu thương yêu nhau, dắt nhau đi đến chủ nghĩa đại đồng.

Cái nền nhơn nghĩa của chúng ta, nó có thể làm môi giới cho các chủng tộc trên thế giới, đạo nhơn nghĩa của chúng ta là một căn bản của quốc thể của nước Việt Nam và có thể thành Quốc Ðạo được.
    Home             1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ] [ 5 ]  [ 6 ]  [ 7 ]  8 ]  [ 9 ]  [ 10 ]  [ 11 ]  [ 12 ]  [ 13 ]  [ 14 ]  [ 15 ]  [ 16 ]  [ 17 ]  [ 18 ]  [ 19 ]  [ 20 ]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét