
Tôi hân hạnh được đọc bản
thảo "GIẢI NGHĨA KINH THIÊN ÐẠO & THẾ ÐẠO" của Hiền Tài Nguyễn
văn Hồng. Thật là một kỳ công tra cứu sưu tầm.
Lời Chí Tôn dạy:
"Giáo hóa nhơn sanh cầu Triết lý" và Cổ nhơn có câu: "Ðọc kinh
cầu lý".
Thật vậy, khi giờ cúng tại
Tòa Thánh hay tại Thánh Thất, tiếng kinh hòa cùng giọng đờn, nếu chúng ta biết
nghĩa lý kinh, luồng tư tưởng phóng ra để dâng lên Ðức Chí Tôn và Phật Mẫu cùng
chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, thì sự cúng mới thấy cảm ứng, đúng với câu của
Thất Nương: "Lễ bái thường hành tâm Ðạo khởi".
Ðây là ít lời thô
thiển của tôi, xin giới thiệu cùng Ðạo đồng.
Tây Ninh, ngày 6 tháng 7 năm Tân Mùi.
(dl 15-8-1991)
CHÁNH
CÔNG
(Hữu
Phan Quân LÊ VĂN THOẠI)
TRI
ÂN
Thành kính tri ân:
Quí Chức Sắc:
Cửu Trùng Ðài,
Hiệp Thiên Ðài và
Cơ Quan Phước Thiện,
Quí Huynh Tỷ và Quí Thân
hữu,
đã đóng góp nhiều ý kiến
quí báu để soạn giả bổ túc và sửa chữa, tạm hoàn thành quyển sách "GIẢI
NGHĨA KINH THIÊN ÐẠO & THẾ ÐẠO" nầy.
Ước mong Quí Chức Sắc, Quí
Huynh Tỷ tiếp tục chiếu cố, đóng góp thêm ý kiến để chỉnh đốn quyển sách nầy
cho được hoàn hảo, tạo thành một công trình chung, hầu sau nầy hiến dâng bản
quyền cho Hội Thánh xử dụng. Ðó là tâm nguyện của soạn giả.
Nay kính.
Hiền Tài Nguyễn văn Hồng
Giới
thiệu:
"Tạo chúc cầu minh, đọc kinh
cầu lý".
Nhờ ánh sáng ngọn đuốc rọi đường dẫn bước đi
vững chắc. Ðọc kinh sách cần rõ thấu lý nghĩa cao siêu thấm nhuần trong tâm hồn
thanh khiết diệu mầu, khi tụng đọc thể hiện bên ngoài mới tạo được luồng tư
tưởng kính tin hiệp hòa từng tiếng kinh nhịp nhàng bên trong dâng lên khi chầu
lễ.
Ðược vậy là mình đã có biết và cảm, tức nhiên thấu đáo "Chín từng Trời Ðất thông
truyền chứng tri.". Ðương nhiên, luồng tư tưởng và tâm ta mới tiếp nhận sự
ứng của Ơn Trên ban cho, bởi có CẢM mới có ỨNG, sự tu hành mới đoạt thành quả
vị, mới hưởng được Bí Pháp huyền vi.
Quyển "GIẢI NGHĨA
KINH THIÊN ÐẠO & THẾ ÐẠO" do Hiền Tài Nguyễn văn Hồng soạn thảo, rất
dày công sưu tầm vào những kinh sách Tam Giáo roi truyền, tra cứu điển tích và
các bộ Từ điển, có thể giúp ích độc giả hiểu biết thêm về ý nghĩa lời kinh
trong khi tụng đọc, hầu chờ đợi sau nầy, quí Chức Sắc Ðại Thiên Phong, bậc đàn
anh chị lớn chúng ta bổ cứu, dạy bảo chúng ta thêm những yếu lý cao siêu nhiệm
mầu trong khi chúng ta còn quá nghèo nàn về vốn hiểu biết trong Ðạo học.
Ðôi dòng thô thiển chân
thành giới thiệu quyển "GIẢI NGHĨA KINH THIÊN ÐẠO & THẾ ÐẠO" nầy
cùng Quí Huynh, Tỷ, Ðệ, Muội, môn sinh của Ðấng Cao Ðài Thượng Ðế.
Giáo
Hữu NGỌC PHÒ THANH
Lời Cầu Nguyện
Thành tâm cầu nguyện
Ðức Chí Tôn, Ðức Phật Mẫu,
Tam Tông Chơn Giáo, Tam Trấn Oai
Nghiêm,
Ðức Quyền Giáo Tông, Ðức
Phạm Hộ Pháp,
và Các Ðấng Thiêng Liêng :
Con xin dâng lên Thân phụ
và Thân mẫu của con phần công đức do con lập được trong việc biên soạn quyển
"Giải nghĩa Kinh Thiên Ðạo & Thế Ðạo", để cầu cho linh hồn Thân
phụ và Thân mẫu con được siêu thăng, an nhàn nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Hiền Tài Nguyễn văn Hồng
kính bái
THAY
LỜI TỰA
Trình bày tổng quát
Ðọc suốt các bài Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo của
Ðạo Cao Ðài, chúng ta nhận thấy các Bài Kinh nầy có thể được phân làm 2 nhóm
theo 2 khuynh hướng Triết lý khác nhau:
* Khuynh hướng Triết lý thứ nhứt:
Ðóng cửa Ðịa Ngục và mở cửa các từng Trời.
Ðiển hình là 2 Bài Kinh: Phật Mẫu Chơn Kinh (PMCK) và
Kinh Giải Oan (KGO), với các câu:
Vô Ðịa Ngục, vô quỉ quan,
Chí Tôn đại xá nhứt trường qui nguyên.
(PMCK)
Ðóng Ðịa Ngục, mở tầng Thiên,
Khai đường Cực Lạc, dẫn miền Tây phương.
(KGO)
Khuynh hướng Triết lý nầy
thể hiện rõ ÐÐTKPÐ là thời kỳ Ðại Ân Xá của Ðức Chí Tôn trong buổi cuối Hạ
Nguơn Tam Chuyển bước qua Thượng Nguơn Tứ Chuyển.
Ðức Chí Tôn đã ra lịnh
đóng cửa Ðịa Ngục, giải phóng tất cả các tội hồn để cho họ chuyển kiếp luân
hồi, trả cho xong hết các oan khiên nghiệp chướng, đồng thời lo việc tu hành,
để được Ðức Chí Tôn cứu vớt, và Ðức Chí Tôn cũng ra lịnh mở cửa Cực Lạc Thế
Giới để rước những Chơn linh có đầy đủ công đức đắc đạo trở về.
* Khuynh hướng Triết lý
thứ nhì:
Vẫn còn cảnh Ðịa Ngục và
Thập Ðiện Diêm Vương với các hình phạt nặng nề trừng trị các tội hồn đã gây ra
nhiều lỗi lầm trong kiếp sanh nơi cõi trần. Các hình phạt nặng nề nơi cõi Ðịa
Ngục đó là: Nấu dầu, xay, cưa, đốt, giã, bào lạc, rắn ăn thịt, mổ bụng moi tim,
móc mắt, ...
Ðiển hình là 2 Bài Kinh:
Kinh Sám Hối (KSH) và Giới Tâm Kinh (GTK), với các câu:
Con bất hiếu, xay, cưa, đốt, giã,
Mổ bụng ra phanh rã tim gan.
(KSH)
Nơi Ðịa Ngục gông cùm sẵn đủ,
Ðể răn loài dâm phụ gian phu.
(GTK)
Khuynh hướng Triết lý thứ nhì
nầy thể hiện rõ Giáo lý của Phật giáo và của Thiên Chúa giáo thuộc thời Nhị Kỳ
Phổ Ðộ, tức là thời kỳ trước khi mở Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ (tức Ðạo Cao Ðài) vào năm
Bính Dần (1926).
Nhóm nầy gồm
4 Bài Kinh:
Kinh Cầu
Siêu
Kinh Sám Hối
Bài Khen
Ngợi Kinh Sám Hối
Giới Tâm
Kinh.
Bốn bài Kinh
nầy do các Ðấng Thiêng Liêng giáng cơ ban cho Chi Minh Lý và Minh Tân, là 2 Chi
trong Ngũ Chi Minh Ðạo của Việt Nam, rồi khi mở Ðạo Cao Ðài, Ðức Chí Tôn dạy
Hội Thánh đến 2 Chi Minh Lý và Minh Tân, thỉnh 4 bài Kinh ấy về làm Kinh Ðại
Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.
Mặt khác, từ
trước
đến nay, Hội Thánh chưa có ban hành sách vở hay tài liệu giải thích tất cả các
bài Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo, mà chỉ có một vài tài liệu giải thích
tổng quát một số ít bài Kinh mà thôi, xin kể ra:
- Tứ Thời
Nhựt Tụng Kinh (có Chú giải) của 2 vị Ðầu Sư: Thượng Trung Nhựt và
Ngọc Lịch Nguyệt, có biên chữ Hán kèm theo và có chú giải các bài Kinh Cúng Tứ
Thời.
- Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết
đạo giải nghĩa Bài Phật Mẫu Chơn Kinh.
Lúc đó, chúng tôi ao ước
có đặng một quyển sách giải nghĩa tất cả các bài Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo, thì
việc học Ðạo bước đầu được dễ dàng biết mấy!
Và bắt đầu từ đó, chúng
tôi có ý hướng sưu tầm tất cả tài liệu liên quan, rồi ra công nghiên cứu để
thực hiện việc giải thích nầy.
Nhưng chúng tôi cảm thấy
bản thân tài sơ trí thiển, gia công học Ðạo cũng chẳng bao lâu, lại đang ở
trong hoàn cảnh khó khăn nhiều mặt, sợ không kham nổi công việc muôn vàn khó
khăn nầy, nên đã hết sức cầu khẩn Ðức Chí Tôn, Ðức Phật Mẫu, Ðức Lý Giáo Tông,
Ðức Phạm Hộ Pháp và các Ðấng Thiêng liêng hộ trì cho được mẫn huệ trí não, sáng
suốt tinh thần, vượt qua các chướng ngại để hoàn thành ý nguyện.
Chúng tôi lại còn có một
điều tin tưởng nữa là cứ mạnh dạn đem hết sức mình ra thực hiện ý định, để các
bậc Chức sắc tiền bối, các vị Ðạo tâm thông hiểu Ðạo lý, có một tập sách cụ thể
để xem xét, phê phán những chỗ sai lầm, bổ túc những chỗ thiếu sót, bỏ bớt
những chỗ dư thừa, thì trong những lần ra mắt tiếp theo, quyển sách sẽ được mỗi
lúc một tốt đẹp hơn.
Chúng tôi ước mong được
như thế thì Tín hữu Cao Ðài lần lần sẽ có được một tập sách hữu ích trong việc
học Ðạo.
Chúng tôi cũng tâm nguyện
rằng, khi tập sách nầy được sửa chữa khá hoàn hảo thì chúng tôi sẽ hiến dâng
cho Hội Thánh ấn hành.
Một khi đã theo Ðạo, hiểu
rõ tôn chỉ, mục đích của nền Ðạo, thì người Tín đồ sẽ không bao giờ xa Ðạo, bỏ
Ðạo, hay làm một điều gì trái với luật pháp của Ðạo.
Do đó, chúng tôi đem hết
sức mình ra để biên soạn quyển "GIẢI NGHĨA KINH THIÊN ÐẠO & THẾ
ÐẠO" nhằm 2 mục đích sau đây:
-Thứ nhứt: Lời xưa có nói:
Ðọc kinh cầu lý. Nếu tụng kinh mà không hiểu được nghĩa lý của lời kinh thì sự
bổ ích không nhiều, bởi vì có hiểu được ý kinh thì khi tụng niệm, tâm hồn ta
mới phấn khởi, giữ trọn tâm hồn trong lời kinh tiếng kệ, mới có sự cảm ứng với
các Ðấng Thiêng Liêng mà ta đang tưởng niệm đến.
- Thứ nhì: Chúng tôi sưu
tập được 8 bổn kinh do Hội Thánh ấn hành vào 8 kỳ khác nhau, kể ra :
* KINH CÚNG TỨ THỜI, in
năm 1928, bản quốc ngữ, nhà in Ðức Lưu Phương, Sài gòn.
* TỨ THỜI NHỰT TỤNG KINH
(có chú giải), in năm 1928, có viết kèm thêm chữ Hán, Chữ Nôm, của 2 vị Ðầu Sư
Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt.
* ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
KINH, không để năm in, gồm chữ Hán và chữ Nôm, không có chữ quốc ngữ, của Bà Nữ
Ðầu Sư Lâm Hương Thanh.
* KINH THIÊN ÐẠO và THẾ
ÐẠO, của Hội Thánh in năm 1936 (Bính Tý), nhà in Ðức Lưu Phương, Sài gòn.
* KINH LỄ, in bên Pháp năm
1952, khổ nhỏ, nhà xuất bản M. Garnier.
* KINH THIÊN ÐẠO và THẾ
ÐẠO , do Hội Thánh ấn hành vào các năm: 1968, 1974, 1975.
* Riêng các bài Kinh mà
các Ðấng giáng cơ ban cho Minh Lý (Minh Lý Ðạo, Tam Tông Miếu) và Hội Thánh
vâng lịnh Ðức Chí Tôn thỉnh về làm Kinh Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, thì chúng tôi
sưu tầm được quyển "KINH NHỰT TỤNG - KINH SÁM HỐI" của Minh Lý Ðạo
Tam Tông Miếu ấn hành năm Quí Sửu (1973).
Khi so sánh các bản Kinh
nầy, chúng tôi nhận thấy có một vài từ ngữ trong một số câu Kinh không đồng
nhứt với nhau. Do đó gây ra nhiều cuộc tranh luận giữa người nầy với người kia,
là chữ nầy đúng, chữ kia sai, và họ đều đưa ra bản Kinh mà họ đang nắm giữ để
làm bằng chứng. Nhưng tất cả các cuộc tranh luận ấy đều đi đến chỗ bế tắc, vì
bản Kinh nào cũng đều do Hội Thánh ấn hành và đều có Ban Kiểm Duyệt của Hiệp
Thiên Ðài ấn ký. Chẳng lẽ những chữ khác biệt ấy đều đúng cả hay sao? Lỗi nầy do
sự sắp chữ sai của nhà in hay do ai sửa đổi? Còn bản Kinh gốc đúng nhứt là bản
nào? Không một ai biết được.
Ðể tạm thời
giải tỏa vấn đề nầy, chúng tôi đưa ra phần "KHẢO DỊ" liệt kê ra hết
những chữ dị biệt giữa các câu kinh trong các bản Kinh, để rộng đường khảo luận
của các học giả, và cũng để giúp tài liệu cho việc nghiên cứu sau nầy của Khảo
Cứu Vụ của Hội Thánh, sẽ xác nhận chữ nào đúng nhứt, để dùng thống nhứt cho
toàn đạo.
Ðể bổ cứu 2
mục tiêu trên, chúng tôi phụ đính thêm phần chữ Hán cho các bài Kinh Hán Việt
sau đây:
Kinh Ngọc
Hoàng Thượng Ðế.
Kinh Phật giáo.
Kinh Tiên
giáo.
Kinh Nho
giáo.
Bài Dâng Rượu, Dâng Trà.
Ngũ Nguyện.
Phật Mẫu Chơn Kinh.
Phần viết chữ Hán kèm theo
các bài Kinh Hán Việt kể trên, chúng tôi căn cứ phần chánh vào bản Kinh Hán văn
in trong quyển "TỨ THỜI NHỰT TỤNG KINH" xuất bản năm 1928 của 2 vị
Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt, có sự phối hợp đối chiếu bản Kinh
Hán văn in trong quyển "ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ KINH" của Bà Nữ Ðầu Sư
Lâm Hương Thanh, có lẽ in vào năm 1928 hoặc 1929.
Khi biên soạn quyển
"GIẢI NGHĨA KINH THIÊN ÐẠO & THẾ ÐẠO", chúng tôi chỉ mong muốn
giúp các Bạn học Ðạo một phương tiện để tìm hiểu ý nghĩa của các câu Kinh căn
cứ theo từ ngữ, trong cái học Hạ Thừa, còn phần ý nghĩa siêu việt của câu Kinh,
vượt khỏi văn tự mà các Ðấng muốn đặt vào đó, thuộc về phần học Thượng Thừa,
chúng tôi chưa đủ trình độ đạt tới.
Chúng tôi mong mỏi được
quí Chức sắc, các bậc Ðạo tâm, chỉ giáo thêm cho chúng tôi, thì đó là một ơn
huệ lớn lao dành cho soạn giả vậy.
Kính.
Soạn giả:
Hiền Tài Nguyễn văn Hồng
NHỮNG CHỮ
VIẾT TẮT
(Sắp theo
thứ tự A B C)
B - BDH - Bài Dâng Hoa.
BDR - Bài
Dâng Rượu.
BDT - Bài Dâng Trà.
BÐNÐ - Bát Ðạo Nghị Ðịnh.
BKNKSH -
Bài Khen Ngợi Kinh Sám Hối.
BXTCÐPTTT - Bài Xưng Tụng Công Ðức Phật Tiên Thánh Thần
BQÐ - Bát
Quái Ðài
C - CGPCT - Chú Giải Pháp Chánh Truyền.
CKTG - Càn Khôn Thế giới.
CKVT - Càn
Khôn Vũ Trụ.
CKVV - Càn Khôn Vạn vật.
CLTG - Cực Lạc Thế giới.
CTÐ - Cửu
Trùng Ðài.
CQPT - Cơ
Quan Phước Thiện.
D - DLCK - Di Lạc Chơn Kinh.
DTC - Diêu Trì Cung.
Ð - ÐÐTKPÐ - Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.
ÐLMD Ðạo - Luật năm Mậu Dần (1938).
G - GTK
- Giới Tâm Kinh.
H - HTÐ - Hiệp Thiên Ðài.
K - KCBCTBCHÐQL - Kinh Cầu Bà Con Thân Bằng Cố Hữu
Ðã Qui Liễu.
KCHKHH -
Kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối.
KCK - Kinh
Cứu Khổ.
KCS - Kinh
Cầu Siêu.
KCTPÐQL
- Kinh Cầu Tổ Phụ Ðã Qui Liễu.
KÐLC - Kinh Ðưa Linh Cửu.
KÐ1C - Kinh Ðệ Nhứt cửu.
KÐ2C - Kinh Ðệ Nhị cửu.
KÐ3C - Kinh Ðệ Tam cửu
KÐ4C - Kinh Ðệ Tứ cửu.
KÐ5C - Kinh Ðệ Ngũ cửu.
KÐ6C - Kinh Ðệ Lục cửu.
KÐ7C - Kinh Ðệ Thất cửu.
KÐ8C - Kinh Ðệ Bát cửu.
KÐ9C - Kinh Ðệ Cửu cửu.
KÐRÐ - Kinh Ði Ra Ðường.
KÐT - Kinh
Ðại Tường.
KGO - Kinh
Giải Oan.
KHH - Kinh
Hạ Huyệt.
KHP - Kinh
Hôn Phối.
KK - Khai
Kinh.
KKĂCR -
Kinh Khi Ăn Cơm Rồi.
KKCÐTTT
- Kinh Khai Cửu Ðại Tường Tiểu Tường.
KKÐCR -
Kinh Khi Ðã Chết Rồi.
KKÐN - Kinh Khi Ði Ngủ.
KKTD - Kinh Khi Thức Dậy.
KKV - Kinh
Khi Về.
KNH - Kinh
Nhập Hội.
KNHTÐ -
Kinh Ngọc Hoàng Thượng Ðế.
KSH - Kinh
Sám Hối.
KTCMÐQL
- Kinh Tụng Cha Mẹ Ðã Qui Liễu.
KTÐTÐ -
Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo.
KTHÐMP -
Kinh Tụng Huynh Ðệ Mãn Phần.
KTKCQV -
Kinh Tụng Khi Chồng Qui Vị.
KTKTQV -
Kinh Tụng Khi Thầy Qui Vị.
KTKVQL -
Kinh Tụng Khi Vợ Qui Liễu.
KTKVTH -
Kinh Tụng Khi Vua Thăng Hà.
KTL -
Kinh Tẫn Liệm.
KTP - Kinh
Thuyết Pháp.
KTT - Kinh
Tắm Thánh.
KTT - Kinh
Tiểu Tường.
KVĂC - Kinh Vào Ăn Cơm.
KVH - Kinh
Vào Học.
KXH - Kinh
Xuất Hội
N - NG Nho Giáo, Kinh Nho Giáo.
NH - Niệm
Hương.
NN - Ngũ
Nguyện.
NTTP - Nữ Trung Tùng
Phận.
P - PCT - Pháp Chánh Truyền.
PG Phật
- Giáo (Kinh Phật Giáo).
PMCK - Phật
Mẫu Chơn Kinh.
T - Td - Thí dụ.
TÐ. ÐPHP - Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp.
TG Tiên
Giáo, Kinh Tiên Giáo.
TKPÐ Tam Kỳ Phổ Ðộ.
TL
Thiêng liêng.
TLHS
Thiêng Liêng Hằng Sống.
TNHT
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.
TNHT.II.36
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Quyển II, trang 36.
TTCÐDTKM Tán Tụng Công Ðức Diêu Trì Kim Mẫu.
TTTN Tòa Thánh Tây Ninh.
V - VSTC Vãng Sanh Thần
Chú.
Phần thứ nhứt : Giải nghĩa Kinh Thiên Ðạo
Kinh Cúng Tứ Thời.
GIẢI NGHĨA
Kinh Thiên Ðạo
NIỆM HƯƠNG
(Giọng Nam ai)
(Lạy 3 lạy, mỗi lạy 4 gật, mỗi gật
niệm Câu Chú của Thầy: Nam mô Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma
Ha Tát)
* * *
GIẢI NGHĨA
Kinh: Bài
văn, bài thơ do các Ðấng Phật, Tiên, Thánh viết ra để xưng tụng công đức, mô tả
nhiệm vụ của các Ðấng TL, hoặc để dạy đạo đức cho nhơn sanh và để cầu nguyện.
Tân
Kinh: Kinh mới (Tân là mới), tức là Kinh thuộc Tam Kỳ Phổ Ðộ. Cũng
như Tân Luật là Luật mới về tu hành của TKPÐ. Còn Kinh và Luật của thời Nhị Kỳ
Phổ Ðộ được gọi là Cựu Kinh, Cựu Luật. (Cựu là cũ, trái với Tân là mới).
Vậy, Tân Kinh
là Kinh của ÐÐTKPÐ, tức là Kinh của Ðạo Cao Ðài. Kinh nầy gồm: Kinh Thiên Ðạo
và Kinh Thế Ðạo.
Thiên Ðạo: Ðạo Trời,
tức là con đường tu với mục đích cuối cùng là giải thoát khỏi luân hồi, để linh
hồn trở về hiệp nhứt với Trời, tức là hiệp với Ðức Chí Tôn Thượng Ðế.
Con đường tu
Thiên Ðạo dành cho bực Thượng thừa quyết chí tu hành, phế đời hành Ðạo, nghiêm
giữ giới luật tu hành, thực hành Tam Lập: Lập Ðức, Lập Công, Lập Ngôn.
Trước khi bước
vào Thiên Ðạo, người tu phải trải qua bực Hạ thừa tu phần Nhơn Ðạo.
Nhơn Ðạo là
Ðạo làm Người, là đường lối dạy con người phải làm tròn bổn phận của một người
đối với gia đình, gồm cha mẹ, anh chị em, vợ chồng con cái; đối với thân tộc,
bạn bè; và sau cùng là bổn phận đối với quốc gia xã hội.
Thế Ðạo: Ðạo ở đời (Thế
là đời), tức là đường lối dạy con người bổn phận làm một người ở đời thế nào
cho hợp với Ðạo lý, lẽ phải. Ðó chính là Nhơn Ðạo.
Thế Ðạo, tức
là Nhơn Ðạo, ví như nền móng; Thiên Ðạo ví như nhà lầu. Không đào móng đúc nền
cho vững chắc thì cất nhà lầu lên ắt sụp đổ. Cho nên, phải tu xong Nhơn Ðạo thì
mới có thể tiến lên tu Thiên Ðạo được.
Cúng: Ðốt
nhang, dâng lễ vật, cầu nguyện và lạy để tỏ lòng thành kính.
Tứ Thời: 4 điểm thời
gian trong một ngày vào các giờ: 0 giờ (tức 12 giờ khuya) thuộc giờ Tý, 6 giờ
sáng thuộc giờ Mẹo, 12 giờ trưa thuộc giờ Ngọ, và 18 giờ (tức 6 giờ chiều)
thuộc giờ Dậu.
Nghi lễ của
Ðạo Cao Ðài dạy các tín đồ cúng Ðức Chí Tôn và các Ðấng Thiêng liêng vào Tứ
thời kể trên, bởi vì vào 4 thời điểm nầy, khí Dương và khí Âm trong CKVT có sự
biến đổi tương đối đặc biệt:
Lúc 0 giờ,
thời Tý: Khí Âm cực thạnh, khí Dương khởi sanh.
Lúc 6 giờ và
18 giờ, thời Mẹo và thời Dậu: Hai khí Dương và Âm giao hòa cân bằng nhau.
Lúc 12 giờ
trưa, thời Ngọ: Khí Dương cực thạnh, khí Âm khởi sanh.
Thời Tý và
thời Ngọ: Cúng Rượu (Rượu trắng).
Thời Mẹo và
thời Dậu: Cúng nước Âm Dương, tức là cúng nước trà và nước trắng thiên nhiên.
Kinh Cúng Tứ Thời: là
các bài kinh để tụng cúng Ðức Chí Tôn và 3 Ðấng Giáo chủ Tam giáo vào 4 thời
trong một ngày.
Kinh cúng
Ðức Chí Tôn vào Tứ thời tại Tòa Thánh hay tại Thánh Thất gồm 8 bài
kinh kể ra sau đây:
Niệm Hương.
Khai Kinh.
Kinh Ngọc
Hoàng Thượng Ðế.
Kinh Phật
giáo.
Kinh Tiên
giáo.
Kinh Nho giáo (Thánh
giáo).
Bài Dâng Hoa,
Dâng Rượu, Dâng Trà.
Ngũ Nguyện.
Kinh cúng
Ðức Phật Mẫu vào Tứ thời tại Báo Ân Từ hay tại Ðiện Thờ Phật Mẫu gồm 6
Bài Kinh, kể ra sau đây:
Niệm Hương.
Khai Kinh.
Phật Mẫu Chơn
Kinh.
Tán Tụng Công
Ðức Diêu Trì Kim Mẫu.
Bài Dâng Rượu
hoặc Dâng Trà.
Ngũ Nguyện.
Kinh Cúng Tứ
Thời còn được gọi là Kinh Nhựt Tụng, (Nhựt
là mỗi ngày). Kinh Nhựt Tụng là những bài kinh dùng để tụng mỗi ngày.
Những bài kinh
thường được tụng theo 2 giọng: Nam xuân và Nam ai. Chỉ có 3 Bài Dâng Tam Bửu là
thài theo giọng Ðảo Ngũ Cung.
Giọng Nam ai: là
giọng ngâm theo điệu cổ nhạc Nam ai, có tính cách buồn bã bi ai, nên nhạc đi
theo nhịp chậm rãi.
Giọng Nam xuân: giọng
ngâm theo điệu cổ nhạc Nam xuân, có tính cách vui tươi, nên nhạc đi theo nhịp
nhanh.
Niệm
Hương: Niệm là tưởng nghĩ tới, hương là mùi thơm, chỉ cây nhang
đang đốt cháy tỏa mùi thơm. Niệm Hương là đốt nhang và tưởng niệm các Ðấng
thiêng liêng.
Kinh Niệm
Hương có nguồn gốc là bài Kinh chữ Hán "Phần Hương Chú" trích trong
Kinh Cảm Ứng của Tiên giáo.
Vào năm Ất Sửu
(1925), Ðức Nam Cực Chưởng Giáo giáng cơ tại Minh Lý (Tam Tông Miếu) dịch bài
Phần Hương Chú ra chữ Nôm ban cho Chi nầy cho dễ hiểu.
Khi mới khai
ÐÐTKPÐ, Ðức Chí Tôn giáng dạy Ngũ Chi Minh Ðạo (Minh Sư, Minh Lý, Minh Tân,
Minh Thiện, Minh Ðường) dâng Kinh cho ÐÐTKPÐ. Do đó, Hội Thánh cử phái đoàn đại
diện gồm 4 vị: Ðức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung, Thượng Giáo Sư Vương quan Kỳ,
Ðức Phạm Hộ Pháp, Ðức Cao Thượng Phẩm, đến Chi Minh Lý thỉnh 6 Bài Kinh: Niệm
Hương, Khai Kinh, Kinh Sám Hối, Bài Khen Ngợi KSH, Kinh Cầu Siêu, Bài Xưng Tụng
Công Ðức Phật Tiên Thánh Thần, về làm Kinh ÐÐTKPÐ.
Sau đây, xin
chép lại bài Phần Hương Chú:
PHẦN HƯƠNG
CHÚ (焚 香 咒)
Ðạo do tâm hiệp (道 由 心 合)
Tâm giả hương truyền.
(心 假 香 傳)
Hương phần ngọc lư (香 焚 玉 爐)
Tâm chú Tiên nguyện.
(心 注 仙 願)
Chơn linh hạ giáng.
(眞 靈 下 降)
Tiên bội lâm hiên.
(仙 珮 鄰 軒)
Kim thần quan cáo (今 臣 關 告)
Kính đạt Cửu Thiên.
(逕 達 九 天)
Sở khải sở nguyện (所 啟 所 願)
Hàm tứ như nghiên. (ngôn)
(咸 賜 如 言)
Dịch nghĩa:
Bài Cầu
Nguyện đốt nhang.
- Ðạo là do
cái Tâm hợp lại,
- Cái Tâm
mượn mùi thơm của nhang để truyền đi.
- Ðốt nhang
tỏa mùi thơm nơi cái lư quí báu,
- Cái Tâm
hướng đến các vị Tiên để cầu nguyện.
- Chơn linh
của các Ðấng giáng xuống,
- Các vị
Tiên ngồi trên xe đi đến.
- Ngày nay
kẻ bề tôi cần tấu trình.
- Mau chóng
thẳng đến Chín từng Trời.
- Ðiều quan
trọng mà mình muốn tỏ bày và mong ước,
- Ðều ban
cho ơn huệ như lời cầu khẩn.
Bài Phần Hương
Chú của Tiên giáo để cúng các vị Tiên, được Ðức Nam Cực Chưởng Giáo diễn nôm
một cách thoát ý tài tình, thành bài kinh cúng Ba Ðấng Giáo chủ Tam giáo nơi
Tam Tông Miếu của Minh Lý Ðạo, và cuối cùng được thỉnh về làm kinh của Ðạo Cao
Ðài cúng Ðức Chí Tôn, Ðức Phật Mẫu và Ba Ðấng Giáo chủ Tam giáo.
Do đó, ý nghĩa
của bài kinh nầy được thăng hoa đến tột đỉnh vì được dùng để cúng Ðức Chí Tôn
Thượng Ðế.
Phần III : Giải nghĩa Kinh Niệm Hương
Ðạo: "Ðạo
là con đường để cho Thánh, Tiên, Phật đọa trần do theo mà hồi cựu vị. Ðạo là
đường của các nhơn phẩm do theo mà lánh khỏi luân hồi. Nếu chẳng phải do theo
Ðạo thì các bậc ấy đều lạc bước mà mất hết ngôi phẩm. Ðạo, nghĩa lý rất sâu xa,
nhưng phải hiểu trước bao nhiêu đó rồi mới học các nghĩa huyền bí khác cho đích
xác đặng." (TNHT.II.3). Do đó, nghĩa thông thường của Ðạo là tôn giáo.
Thành: Thành
thật. Tín: Tin, tin có Thượng Ðế, tin có Thần, Thánh,
Tiên, Phật, tin mỗi người đều có linh hồn bất tiêu bất diệt, tin linh hồn là
điểm Linh quang do Thượng Ðế ban cho mỗi người để tạo nên sự sống và gìn giữ sự
sống.
Tín chính là
đức tin rất cần thiết cho người theo Ðạo.
Hiệp: Hợp
lại. Lòng thành: Cái tâm chơn thật.
C.1: Người
theo đạo, cốt yếu phải có một tấm lòng thành thật và một đức tin mạnh mẽ, có dủ
2 yếu tố ấy hợp lại mới vững bước trên đường đạo.
Câu 2: "Lòng nương nhang khói tiếp truyền ra."
Lòng: Cái
tâm của con người. Nương: Dựa vào.
C.2: Tư
tưởng nơi tâm nương theo khói nhang truyền lên Trời cao.
Câu 3: "Mùi
hương lư ngọc bay xa."
Mùi
hương: Mùi thơm của khói nhang tỏa ra, ý nói những tư tưởng hay ý
nghĩ trong sạch tốt đẹp của cái Tâm phát ra. Lư: Dụng
cụ đặt trên bàn thờ dùng để đốt trầm hay để đốt nhang cắm vào; đốt trầm thì gọi
là Lư trầm, đốt nhang thì gọi là Lư hương. Ngọc: Loài
đá quí, chỉ sự quí báu. Lư ngọc: Cái lư bằng ngọc, chỉ
cái Tâm quí báu của con người.
C.3: "Tư
tưởng, ý nghĩ trong sạch tốt đẹp phát ra từ cái Tâm quí báu bay lên truyền đến
các cõi Trời xa."
Kính: Kính
trọng. Thành: Thành thật. Cầu: Xin. Nguyện: Mong
ước. Cầu nguyện là cầu xin các Ðấng thiêng liêng ban cho điều mà mình mong ước.
Tiên Gia: Tiên là ông Tiên, Gia là Cha.
Tiên Gia là Ông Cha Tiên, đó là Ðại Từ Phụ, Ðấng Cha chung thiêng liêng của
toàn cả vạn linh sanh chúng trong CKVT, mà ta thường gọi là Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng
Thượng Ðế.
C.4: Tấm lòng tôn kính và thành thật cầu
nguyện thì Ðức Chí Tôn Ðại Từ Phụ sẽ chứng cho mình.
Câu 5-6: "Xin Thần
Thánh ruổi dong cỡi hạc,
Xuống phàm trần vội gác xe Tiên."
Ruổi dong: Ði thẳng một mạch cho mau tới
nơi.
Hạc: Giống
chim lớn, chân cao, cổ dài, lông trắng, bay nhanh, dáng thanh nhã, sống đến
ngàn năm, thường được các vị Tiên dùng để cỡi bay đi. Phàm: Tầm
thường thấp kém. Trần: Bụi bặm. Phàm trần là chỉ cõi
thế gian, cõi đời, cõi của nhơn loại đang sống, vì cõi nầy thấp kém có nhiều
bụi bặm ô trược. Gác: Ðặt ngang lên trên. Xe
Tiên: Chiếc xe mầu nhiệm nơi cõi thiêng liêng, cũng gọi là Xe Như
Ý, dùng để chở các vị Tiên đi lại. Người ngồi trên xe muốn đi đến đâu thì chiếc
xe Tiên hay xe Như Ý chở ngay đến đó tức khắc. Gác xe Tiên: Ngồi
lên chiếc xe Tiên.
Câu 5-6: Xin
các Ðấng Thần Thánh cỡi hạc hoặc đi trên chiếc xe Tiên dong ruổi xuống cõi thế
gian.
Câu 7: "Ngày nay đệ tử khẩn nguyền."
Ðệ tử: Học
trò. Học trò đối với Thầy thì xưng mình là đệ tử. Ðức Chí Tôn tự xưng là Thầy,
và gọi các con đang học đạo là môn đệ hay đệ tử. Khẩn: Tha
thiết. Nguyền: Mong mỏi cầu xin. Khẩn
nguyền: Tha thiết cầu xin điều mình mong ước.
C.7: Ngày
nay, chúng con là học trò của Thầy, xin tha thiết cầu nguyện.
Chín
từng Trời: Chữ Hán gọi là Cửu Trùng Thiên. Chín từng Trời nầy có
tên theo đúng 9 bài Kinh Tuần Cửu, kể từ thấp dần lên cao là:
Từng Trời thứ nhứt có Vườn Ngạn Uyển.
Từng Trời thứ nhì có Vườn Ðào Tiên của Phật
Mẫu.
Từng Trời thứ ba gọi là Thanh Thiên.
Từng Trời thứ tư gọi là Huỳnh Thiên.
Từng Trời thứ năm gọi là Xích Thiên.
Từng Trời thứ sáu gọi là Kim Thiên.
Từng Trời thứ bảy gọi là Hạo Nhiên Thiên.
Từng Trời thứ tám gọi là Phi Tưởng Thiên.
Từng Trời thứ chín gọi là Tạo Hóa Thiên.
CHÚ Ý:
Có một số
vị cho rằng: Vườn Ngạn Uyển và Vườn Ðào Tiên không ở trên 2 từng
Trời thứ nhứt và thứ nhì, mà từng Trời thứ nhứt là Thanh Thiên trong bài Kinh
Ðệ Tam Cửu; từng Trời thứ hai là Huỳnh Thiên, vv..., từng Trời thứ 7 là Tạo Hóa
Thiên, từng Trời thứ 8 là Hư Vô Thiên, bỏ từng Trời Hội Nguơn Thiên, và từng
Trời thứ 9 là Hỗn Nguơn Thiên, và gọi đó là Cửu Trùng Thiên.
Ðiều nầy hoàn
toàn không đúng, vì 3 lý do sau đây:
1. Ðức Phạm Hộ
Pháp thuyết đạo giải nghĩa bài Kinh Phật Mẫu tại Cửu Long Ðài ngày 15-8-Ðinh
Hợi (1947) có nói rõ rằng: "Từng Trời thứ 9 gọi là Cung Tạo Hóa Thiên, có
vị cầm quyền tạo đoan gọi là Thiên Hậu." (TÐ.ÐPHP.Q1. 64)
2. Bài Thài
hiến lễ Ðức Phật Mẫu trong Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung có 4 câu khoán thủ là: Cửu
Thiên Huyền Nữ, nghĩa là: Cửu là thứ 9, Thiên là từng Trời, Huyền là huyền
diệu, Nữ là người phụ nữ. Cửu Thiên Huyền Nữ là người phụ nữ huyền diệu ở từng
Trời thứ 9. Ðó là Ðức Phật Mẫu. Ðiều nầy một lần nữa chứng tỏ Tạo Hóa Thiên là
từng Trời thứ 9.
3 . Nghi thức
Tang lễ trong Ðạo Cao Ðài đối với các Chức sắc Ðại Thiên Phong hàng Tiên vị như
Ðầu Sư, Thập nhị Thời Quân đổ lên, khi đăng Tiên, thể xác được liệm vào liên
đài. "Liên đài được quàn tại biệt
điện của mỗi vị một đêm, Báo Ân Từ một đêm, Ðền Thánh một đêm, và Cửu Trùng
Thiên một đêm. Hội Thánh sẽ cử hành Lễ Tiểu Tường, Ðại Tường, kỷ niệm hằng năm
và xây bửu tháp. Không có làm Tuần Cửu và hành pháp độ thăng." (Trích
trong quyển Quan Hôn Tang Lễ năm 1976 của Hội Thánh).
Chúng ta lưu ý
trong nghi thức tế lễ nầy, liên đài được đặt trên Cửu Trùng Thiên tại Ðại Ðồng
Xã, không làm Tuần Cửu, chỉ làm Tiểu Tường, Ðại Tường, không hành pháp Ðộ
Thăng.
Ðiều đó cho
chúng ta hiểu rằng: Chức sắc hàng Tiên vị đổ lên có đủ công đức để vượt lên
khỏi Cửu Trùng Thiên (mới được ngồi trên Cửu Trùng Thiên) mà không cần nhờ làm
Tuần Cửu hay Phép Ðộ thăng.
Hội Thánh chỉ
làm lễ Tiểu Tường, mà bài Kinh Tiểu Tường là để đưa chơn hồn lên từng Trời Hư
Vô Thiên. Vậy Hư Vô Thiên phải ở bên trên Cửu Trùng Thiên, chớ không thể ở
trong Cửu Trùng Thiên được, và đó chính là từng Trời thứ 10.
Qua sự trình
bày 3 lý do vừa kể trên, chúng ta đi đến kết luận là: Tạo Hóa Thiên là từng
Trời thứ 9 nằm trong Cửu Trùng Thiên, và Hư Vô Thiên là từng Trời thứ 10 nằm
bên trên Cửu Trùng Thiên. Theo đó thì Hội Nguơn Thiên là từng Trời thứ 11, và Hỗn
Nguơn Thiên là từng Trời thứ 12.
Ba từng Trời
bên trên (Hư Vô Thiên, Hội Nguơn Thiên, Hỗn Nguơn Thiên) hợp với 9 từng Trời
(Cửu Trùng Thiên) bên dưới tạo thành 12 từng Trời, gọi là Thập nhị Thiên.
Trở lại giải
thích các từ ngữ trong Câu kinh 8:
Ðất: Chỉ
các quả Ðịa cầu, ý nói Thất thập nhị Ðịa (72 Ðịa cầu). Thông: Suốt
tới khắp nơi. Thông truyền: Truyền đi khắp nơi. Chứng: Nhận
thực. Tri: Biết. Chứng tri là nhận thực có biết rõ.
C.8: Lời
khẩn nguyền của đệ tử sẽ được truyền đi suốt đến 9 từng Trời và đến các quả Ðịa
cầu để các Ðấng thiêng liêng chứng thực biết rõ.
Sở: Ðiều
quan trọng của mình. Vọng: Mong ước. Sở vọng là điều
quan trọng của mình hằng mong ước. Gắng ghi: Cố gắng
ghi nhớ. Ðảo: Cúng tế cầu nguyện. Cáo: Tấu
trình, báo cáo. Ðảo cáo là cúng tế cầu nguyện và tấu trình các việc
C.9: Ðiều
quan trọng mà lòng mình hằng mong ước, cố gắng ghi nhớ để cúng tế cầu nguyện và
tấu trình lên các Ðấng Thiêng liêng.
Ơn Trên: Ơn
huệ của Ðức Chí Tôn, Ðức Phật Mẫu và các Ðấng thiêng liêng. Bổ: Giúp
đỡ, thêm vô cho đủ. Báo: Ðáp lại. Bổ báo là giúp đỡ báo
đáp lại.
C.10: Nhờ
ơn Ðức Chí Tôn, Ðức Phật Mẫu và các Ðấng thiêng liêng giúp đỡ báo đáp lại và
ban cho phước lành.
Câu Chú của
Thầy: "Nam mô Cao Ðài Tiên Ông
Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát."
Câu Chú: Câu
niệm có tánh cách huyền bí của một Ðấng TL đặt ra để hộ trì các môn đệ trên
bước đường tu.
Thầy: Trong
thời ÐÐTKPÐ, Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế giáng cơ dạy đạo, xưng mình là
Thầy, gọi các con đang học đạo là môn đệ. Ðức Chí Tôn dạy đạo đức cho nhơn sanh
như là Thầy dạy trò, gần gũi thân mật, biểu lộ lòng thương yêu của Chí Tôn đối
với chúng sanh thật vô cùng tận.
Nam-mô: do
phiên âm từ tiếng Pali "Namô" hoặc từ tiếng Phạn "Namah",
dịch nghĩa là: Qui mệnh, kỉnh lễ, cúi đầu làm lễ. Từ ngữ Nam-mô thường được
dùng làm chữ khởi đầu một câu cầu nguyện.
Cao Ðài: Cái
đài cao, dùng làm nơi ngự của Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế khi có Ðại hội
triều đình của Ðức Chí Tôn tại Linh Tiêu Ðiện Ngọc Hư Cung.
Tiên
Ông: Ông Tiên, vị Tiên.
Ðại: Lớn. Bồ-
Tát: Nói đầy đủ là Bồ-Ðề-Tát-Ðóa, tiếng Phạn là Bodhisattva, nghĩa
là người đã tự giác được bản tánh và có nhiệm vụ phổ độ chúng sanh. Ma-Ha-Tát: Nói
đầy đủ là Ma-Ha-Tát-Ðóa, tiếng Phạn là Mahasattva, nghĩa là Ðại chúng sanh, tức
là người có dũng tâm muốn làm việc lớn.
Ðại Bồ-Tát
Ma-Ha-Tát là vị Bồ Tát lớn, ở phẩm bực cao trọng, xứng đáng đứng hàng Phật vị,
nhưng vì còn nhiệm vụ cứu độ chúng sanh nên còn mang danh Bồ Tát.
Câu Chú của
Thầy đặc biệt có 12 chữ là vì con "số 12 là số
riêng của Thầy ".
Câu Chú nầy có
ý nghĩa bao hàm Tam giáo:
CAO ÐÀI: tượng
trưng Nho giáo.
TIÊN ÔNG: tượng
trưng Tiên giáo (Ðạo giáo).
ÐẠI BỒ-TÁT
MA-HA-TÁT: tượng trưng Phật giáo.
Do đó, Câu Chú
của Thầy (Ðức Chí Tôn) có ý nghĩa Tam giáo đồng tông, ngày nay qui nguyên Ðại
Ðạo. Ðại Ðạo đó chính là ÐÐTKPÐ, tức là Ðạo Cao Ðài do Ðức Chí Tôn sáng lập và
làm Giáo Chủ.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét