1. "Ánh hồng chiếu đường mây rỡ rỡ.
2. Cõi Xích Thiên vội mở ải quan.
3. Thiên Quân diêu động linh phan.
4. Cả miền Thánh vức nhộn nhàng tiếp nghinh.
5. Ðài Chiếu Giám Cảnh Minh nhẹ bước,
6. Xem rõ ràng tội phước căn sinh.
7. Lần vào Cung Ngọc Diệt Hình,
8. Khai Kinh Vô Tự đặng nhìn quả duyên.
10. Phép huyền công trụ nghĩa hóa thân.
11. Kỵ Kim quang kiến Lão Quân.
12. Dựa xe Như Ý, Oai Thần tiễn thăng."
(Niệm Câu Chú của
Thầy 3 lần)
GIẢI NGHĨA
Kinh Ðệ Ngũ Cửu do Ngũ
Nương DTC giáng cơ ban cho. Ngũ Nương có nhiệm vụ hướng dẫn các chơn hồn lên
từng Trời Xích Thiên. Gọi là Xích Thiên bởi vì ở từng Trời nầy, ánh sáng đều có
màu hồng. Xích là màu hồng.
Câu 1: "Ánh hồng chiếu đường mây rỡ rỡ."
Ánh hồng: Ánh sáng màu
hồng. Chiếu: Rọi sáng. Ðường mây: Ðường đi trên mây. Rỡ rỡ: Sáng ngời, rực rỡ.
C.1: "Ánh sáng hồng chiếu rực rỡ con đường đi trên mây."
Câu 2: "Cõi Xích Thiên vội mở ải quan."
Xích: Màu hồng. Xích
Thiên: Từng Trời có ánh sáng màu hồng. Ðó là từng Trời thứ 5 trong Cửu Trùng
Thiên. Ải quan: Cửa ải, cửa ngõ ra vào đặt tại biên giới của một nước.
C.2: "Cửa ải đi vào từng Trời Xích Thiên vội vàng mở ra."
Câu 3: "Thiên Quân diêu động linh phan."
Thiên Quân: Vị tướng Trời.
Diêu động: Dao động, chuyển động đưa qua đưa lại một cách đều đặn. Linh phan:
Cây Phướn linh. Phan là cây Phướn. Linh là thiêng liêng.
C.3: "Một vị Thiên Quân cầm cây phướn linh đưa qua đưa lại làm hiệu
lịnh."
Câu 4: "Cả miền Thánh
vức nhộn nhàng tiếp nghinh."
Thánh vức: Vức tức là Vực,
là một vùng đất. Thánh vức là vùng đất Thánh. Thánh vức đồng nghĩa với Thánh
địa.
Nhộn nhàng: Nhộn nhịp, rộn
rịp, đông đảo nhiều người vui vẻ lăng xăng công việc. Tiếp nghinh: Ðón rước
tiếp đãi.
C.4: "Cả miền đất Thánh nhộn nhịp đón rước và
tiếp đãi."
Câu 5-6: "Ðài Chiếu Giám Cảnh Minh nhẹ bước,"
Xem rõ ràng tội phước căn
sinh.
Ðài: Nơi xây cao lên.
Chiếu: Soi rọi. Giám: Tấm kiếng, gương soi. Ðài Chiếu Giám: là một cái đài trên
đó có đặt một tấm kiếng lớn mà phép huyền diệu TL cho thấy trở lại tất cả việc
làm, lời nói của mỗi Chơn hồn trong suốt kiếp sanh nơi cõi trần, khi Chơn hồn
đứng trước tấm kiếng ấy, để cây Cân Công Bình TL cân tội phước mà định phận:
Thăng hay đọa. Ðài Chiếu Giám còn được gọi là Minh Cảnh Ðài. Minh là sáng, Cảnh
còn đọc là Kính: Tấm kiếng dùng làm gương soi.
Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết
đạo nói về Minh Cảnh Ðài như sau: "Ðài ấy là Tòa Tam Giáo, chúng ta không
thấy cái trạng thái hình thể nó ra sao. Khi chúng ta đến, hào quang chiếu diệu
xông lên như ngọn lửa vậy. Lửa ấy chẳng phải lửa thật, nó là hào quang, cho ta
thấy trước rồi biến mất đi, kế thấy một cây Cân Công Bình hiện ra trước mắt
chúng ta, rồi cũng từ từ biến mất. Chúng ta thấy mình chẳng khác nào như khán
giả đứng trước đài kia coi cả kiếp sanh của chúng ta, không điều gì sót, phải
chăng nơi ấy Kinh Phật gọi là Minh Cảnh Ðài? Trước mặt chúng ta, khi trước
chúng ta làm những việc gì, nay nó chiếu lại cho xem, chẳng khác gì như mình
xem tuồng hát bóng vậy. Mỗi khi mình hành động gì trong kiếp sanh khi xưa, hôm
nay đều ngó thấy trước mặt, và Cân ấy tùy theo nên hư tội phước mà hiện tượng
ra hết thảy, quyết đoán một cách công bình, không sai chút nào hết. Phải chăng
đó là huyền bí của Tòa TL ấy? Vậy hành tàng đã có trước mặt, Luật Tam giáo
chẳng hề sai chạy. Kiếp sanh đã làm gì, Ðời hay Ðạo, mặt TL không sót một
điều."
Căn sinh: Căn là gốc rễ, sinh là sống. Căn sinh
là chỉ tất cả lời nói, việc làm trong suốt một kiếp sống nơi cõi trần.
C.5-6: "Chơn hồn nhẹ nhàng bước lên Ðài
Chiếu Giám (còn gọi là Minh Cảnh Ðài) để xem lại một cách rõ ràng có bao nhiêu
tội và phước mà Chơn hồn đã gây
ra trong suốt kiếp sống nơi cõi
trần."
Câu 7-8: "Lần vào Cung
Ngọc Diệt Hình,"
"Khai Kinh Vô Tự đặng nhìn quả duyên."
Lần vào: Ði lần vào trong. Khai: Mở ra.
Kinh Vô Tự: Quyển Kinh không chữ. Ðây là một
quyển Kinh rất huyền diệu nơi cõi
thiêng liêng, bởi vì khi Chơn hồn đến đứng trước quyển Kinh ấy, lật ra xem thì chữ bắt đầu hiện ra trên các trang giấy
trắng, thấy rõ tên tuổi và tất cả việc làm trong kiếp sanh của Chơn hồn nơi cõi trần.
Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo Con đường TLHS, nói
về Vô Tự Kinh như sau:
"Nếu khi vô được rồi, thân nhân chúng ta
dắt chúng ta đến một Cung có một quyển sách Thiên Thơ gọi là Vô Tự Kinh, để
trước mặt chúng ta, dở ra xem, thấy tên mình và kiếp sanh của mình đã làm gì, nó hiện ra đủ hết trong quyển Thiên Thơ ấy. Vị Chưởng
quản Cung ấy gọi là Nam Tào Bắc Ðẩu. Nơi Nam Tào Bắc Ðẩu, không có ai trị ta
hết, chính ta trị lấy ta. Sau khi xem xong quyển Vô Tự Kinh, ta thấy hết hành
tàng của ta thì ta định kiếp cho ta, chính Chơn thần định án ta, chớ không ai
định án ta hết, nên dầu ta muốn chối tội cũng không được. Cái bí mật vô đối cầm
quyền cả CKVT là như vậy: Chính mình làm tòa xử lấy mình."
Quả duyên: Quả là cái kết
quả, duyên là cái sức bổ trợ cho cái Nhân thành thành cái Quả. Quả duyên là cái
kết quả do sự bổ trợ của cái duyên mà đạt được, tức là cái phẩm vị đạt được do
công đức tu hành.
C.7-8: "Chơn hồn đi lần vào trong đến Cung
Ngọc Diệt Hình, mở quyển Vô Tự Kinh thì chữ mới hiện ra, chép rõ tất cả lời
nói, hành vi của Chơn hồn trong suốt kiếp sanh nơi cõi trần, nhờ đó Chơn hồn
nhìn thấy được phẩm vị của mình."
Câu 9: "Ðắc văn sách
thông Thiên định Ðịa,"
Ðắc: Ðược. Văn sách: Văn
là lời văn, sách là quyển sách. Văn sách là lời văn viết trong quyển sách.
Thông Thiên định Ðịa:
Thông suốt các việc ở trên Trời, định rõ các việc ở dưới đất tức là quyết định
được các việc nơi cõi trần. Như vậy Chơn hồn đã có được trí huệ và Thần thông.
C.9: "Chơn hồn được một quyển sách, học trong đó thì thông suốt các
việc trên Trời và định được các việc nơi cõi trần, tức là Chơn hồn đạt được trí
huệ và Thần thông."
Câu 10: "Phép huyền công trụ nghĩa hóa thân."
Phép huyền công: Công phu
tu luyện đạt được các phép tắc biến hóa huyền diệu. Thí dụ như Tề Thiên Ðại
Thánh trong Truyện Tây Du học được Thất thập nhị Huyền công, tức là 72 phép
biến hóa huyền diệu.
Trụ nghĩa: Trụ là ở, còn
đấy; Nghĩa là điều phải đúng theo đạo lý. Trụ nghĩa là ở nơi điều nghĩa. Hoá
thân: Biến hóa thân mình bằng cách dùng phép thuật huyền diệu.
C.10: "Các phép huyền công biến hóa thân mình được xử dụng ở nơi điều
nghĩa."
Câu 11: "Kỵ Kim quang kiến Lão Quân."
Kỵ: Cỡi. Kim quang: Lằn
ánh sánh vàng. Kỵ Kim quang: Cỡi trên lằn ánh sáng vàng, ý nói đứng trên lằn
ánh sáng vàng để nó đưa đi. (Giống như C.8 KÐ2C: Kim quang kiệu đỡ ). Kiến: Thấy,
gặp.
C.11: "Ðứng trên lằn ánh sáng vàng để nó đưa mình đến bái kiến Ðức Thái
Thượng Lão Quân."
Câu 12: "Dựa xe Như Ý, Oai Thần tiễn thăng."
Xe Như Ý: Chiếc xe Tiên, mà người ngồi trên đó
muốn đi đến đâu thì nó sẽ đưa đến
đó đúng như ý muốn.
Oai Thần: Các vị Thần oai vệ. Tiễn thăng: Ðưa tiễn bay lên.
Tiễn là đưa lên đường, thăng là bay lên.
C.12: "Nhờ chiếc xe Như Ý đưa mình đi lên đúng theo ý muốn, có các vị
Oai Thần tiễn đưa bay lên."

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét