KINH GIẢI OAN
(Giọng Nam xuân)
1. "Vòng xây chuyển vong hồn tấn hóa.
2. Nương xác thân hiệp ngả Càn khôn.
3. Bước đường sanh tử đã chồn.
4. Oan oan nghiệt nghiệt dập dồn trái căn.
5. Luật nhơn quả để răn Thánh đức.
6. Cửa Luân hồi nhắc bực cao siêu.
7. Dầu chăng phải mực Thiên điều.
8. Cũng quyền tự chủ dắt dìu Thiên lương.
9. Dòng khổ hải hễ thường chìm đắm,
10. Mùi đau thương đã thấm Chơn linh.
11. Dây oan xe chặt buộc mình.
12. Nhớp nhơ lục dục thất tình nhiễm thân.
13. Chịu ô trược Chơn thần nặng trịu.
14. Mảnh hình hài biếng hiểu lương tâm.
15. Phong trần quen thú cung âm.
16. Cảnh thăng ngơ ngẩn lạc lầm Phong đô.
17. Khối trái chủ nhẫng lo vay trả.
18. Mới gây nên nhân quả nợ đời.
19. Rảnh mình đâu đặng thảnh thơi.
20. Thiên cung lỡ lối chơi vơi cõi trần.
21. May đặng gặp hồng ân chan rưới,
22. Giải trái oan sạch tội tiền khiên.
23. Ðóng Ðịa ngục, mở tầng Thiên.
24. Khai đường Cực Lạc, dẫn miền Tây phương.
25. Nhập Thánh thể dò đường cựu vị.
26. Noi chơn truyền khử quỉ trừ ma.
27. Huệ quang chiếu thấu chánh tà.
28. Chèo thuyền Bát Nhã Ngân hà độ sanh.
29. Cứ nương bóng Chí Linh soi bước.
30. Gội mê đồ tắm nước Ma-Ha.
31. Liên đài may nở thêm hoa.
32. Lão Ðam cũng biết, Thích Già cũng quen."
(Niệm 3 lần
Câu Chú của Thầy).
GIẢI NGHĨA
Kinh Giải
Oan do Ðức Phạm Hộ Pháp đặt ra, có cầu Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ chỉnh văn
lại.
Theo lời Sĩ Tải Huỳnh văn
Hưởng thì 4 câu kinh cuối của bài Kinh Giải Oan bài do Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn
giáng cơ viết tiếp cho trọn ý nghĩa của bài.
Kinh Giải Oan để đồng nhi
tụng trước khi vị Chức sắc hành Pháp Giải Oan cho một tín đồ. Mục đích của Phép
Giải Oan nằm trong ý nghĩa của bài kinh nầy và trong một số câu kinh của các
bài kinh khác, xin trích ra sau đây:
Dầu trọn kiếp sống không nên đạo,
Dầu oan gia tội báo buộc ràng.
Chí Tôn xá tội Giải Oan,
Thánh Thần Tiên Phật cứu nàn độ vong. (KCHKHH)
Kinh Cau Hon Khi Hap Hoi
Phép Giải
Oan độ hồn khỏi tội. (KHH) Kinh Ha Huyet
Chí Tôn xá tội Giải Oan,
Thánh Thần Tiên Phật cứu nàn độ căn.
(KCBCTBCHÐQL) Kinh Cau Ba Con Than Bang Co Huu Ða Qui Lieu
Giải Oan:
Giải là cởi bỏ ra, Oan là thù giận. Giải oan là cởi bỏ tất cả oán thù đã gây ra
trong nhiều kiếp trước, tức là cởi bỏ những oan nghiệt tiền khiên. Ðó là những nghiệp chướng
nặng nề, nếu không cởi bỏ thì nó sẽ báo ứng gây ra nhiều trở ngại và tai họa
đau khổ cho kiếp sống hiện tại.
Câu 1: "Vòng xây chuyển
vong hồn tấn hóa."
Vòng xây chuyển: Chỉ bánh
xe luân hồi, tức là sự luân hồi chuyển kiếp của con người nơi cõi trần. Vong
hồn: Vong là chết, hồn là linh hồn. Vong hồn là linh hồn của người chết.
Tấn hóa: Tiến hóa, thay
đổi mỗi lúc một tốt đẹp và cao siêu hơn. Luật Tiến hóa chi phối khắp CKVT. Vạn
vật luôn luôn tiến hóa, nên Càn Khôn cũng luôn luôn tiến hóa.
Sự tiến hóa của Vật chất,
Kim thạch, Thảo mộc, Thú cầm là sự tiến hóa tự nhiên do các Ðấng Thiêng liêng
thúc đẩy; còn sự tiến hóa của con người là do học hỏi và tu luyện, bởi vì con
người có hiểu biết và suy nghĩ.
Linh hồn con người đầu
kiếp xuống trần là để học hỏi và tiến hóa. Ðầu tiên con người học làm ác, để
được quả báo mà chiêm nghiệm việc ác; học ác xong đến chán rồi thì bắt qua học
thiện, làm việc thiện để nhận được quả báo mà chiêm nghiệm việc thiện, rồi thấy
việc thiện rất có lợi cho linh hồn nên tiếp tục làm thiện mãi, nhờ thế mới tiến
hóa lên các phẩm Thần Thánh Tiên Phật.
C.1: "Nhờ luân hồi chuyển kiếp, linh hồn con người mỗi lúc một tiến hóa
tốt đẹp hơn, cao siêu hơn."
Câu 2: "Nương xác thân
hiệp ngả Càn khôn."
Nương: Dựa vào. Xác thân:
Thể xác phàm. Hiệp: Hợp vào. Ngả: Lối đi, đường đi. Càn khôn: Hai quẻ trong Bát
Quái tượng trưng Âm Dương, mà nguyên lý Âm Dương là Ðạo. Hiệp ngả Càn khôn: Ý
nói hợp vào con đường Ðạo, tức là theo Ðạo lo việc tu hành.
C.2: "Linh hồn phải nương dựa vào xác thân phàm để đi vào con đường
Ðạo, lo việc tu hành."
Linh hồn nơi cõi thiêng
liêng, muốn được cao thăng phẩm vị, thì phải đầu kiếp xuống trần, để có xác
thân phàm, mới có được TINH. Nhờ có xác thân phàm mới lập được công quả và
phước đức, sau đó được truyền cho phép luyện đạo, để luyện TINH, KHÍ, THẦN hiệp
nhứt, đắc đạo tại thế, linh hồn được cao thăng phẩm vị, trở thành Tiên, Phật.
Câu 3: "Bước đường sanh
tử đã chồn."
Ðường sanh tử: Con đường
luân hồi, hết sanh rồi tới tử, tử rồi lại chuyển kiếp để được sanh ra, ... cứ
thế tiếp diễn như bánh xe quay tròn. Chồn: Mỏi, chán (mỏi gối chồn chân)
C.3: "Bước đi trên con đường luân hồi, qua nhiều lần sanh tử, nên đã
mỏi mòn chán nãn."
Câu 4: "Oan oan nghiệt
nghiệt dập dồn trái căn."
Oan: Thù giận. Oan oan:
Nhiều thù giận nối tiếp.
Nghiệt: Cái nghiệp ác, cái
mầm ác gây ra tai họa. Việc làm ác gây ra nghiệp ác để chờ cơ hội thì báo ứng
về sau. Nghiệt nghiệt: Nhiều nghiệp ác cứ nối tiếp nhau.
Dập dồn: Dồn dập, kéo đến
liên tiếp. Trái: Món nợ. Căn: Gốc rễ. Trái căn: Những món nợ có gốc rễ từ kiếp
trước, nay kiếp nầy phải đền trả.
C.4: "Nhiều thứ oan nghiệt của kiếp trước dồn dập kéo tới là những món
nợ đòi hỏi kiếp nầy mình phải đền trả."
Câu 5: "Luật nhơn quả
để răn Thánh đức."
Luật nhơn quả: Nhơn hay
Nhân là cái nguyên nhân, ví như cái hột; quả là cái trái, kết quả. Nhơn quả là
hột và trái. Một cái hột, ương lên thành một cái cây, cây lớn lên sanh trái,
trong trái có hột mới, đem ương hột mới thì có cây mới, ... Nhân quả, quả nhân,
cứ thế nối tiếp nhau mãi.
Như vậy, NHÂN là cái năng
lực phát động, QUẢ là sự hình thành của cái năng lực phát động đó. Nhân và Quả
là 2 trạng thái nối tiếp nhau, nương tựa vào nhau. Nếu không Nhân thì không có
Quả, nếu không Quả thì ắt không Nhân.
Ðức Chí Tôn là Ðấng chí
công vô tư, không vì thương mà thưởng, không vì ghét mà phạt. Ðấng ấy chỉ lập
ra Luật Nhân Quả để thực hiện sự Công Bình thiêng liêng mà điều hành sự Tiến
hóa trong CKVT.
Hễ Nhân nào thì Quả nấy,
trồng dưa thì được dưa, trồng đậu thì được đậu, gieo gió thì gặt bão, nhứt định
không bao giờ sai chạy. Nhân và Quả cứ tiếp tục báo ứng nhau mãi, từ kiếp nọ
sang kiếp kia, mãi mãi trói buộc con người vào vòng oan nghiệt nơi cõi trần.
Răn: Ngăn cấm, hăm he để
dạy bảo.
Thánh đức: Cái đức tốt của
bực Thánh. Người có Thánh đức là người có tâm lành, cam thọ khổ để giúp nhơn
sanh hết khổ, suốt đời đi trọn vẹn trên con đường đạo đức.
C.5: "Ðức Chí Tôn lập ra Luật Nhân quả để răn dạy nhơn sanh phải biết
tuân theo mà đi trọn con đường Thánh đức."
Câu 6: "Cửa Luân hồi nhắc bực cao siêu."
Luân hồi: Luân là cái bánh
xe, hồi là quay trở lại. Luân hồi, nghĩa đen là cái bánh xe quay đi rồi trở
lại. Ðức Phật ví kiếp sống của con người vơí sự sinh tử như là cái bánh xe quay
tròn, tiếp diễn mãi mãi. Như thế, Luân hồi chỉ là sự diễn biến liên tục của
Nhân và Quả, nhưng tính theo đơn vị thời gian là một kiếp sống con người. Kiếp
trước là Nhân, kiếp sống hiện tại là Quả, và cũng là Nhân cho kiếp sau, cứ thế
tiếp diễn mãi. Khi còn ở trong vòng Luân hồi thì phải chịu trong vòng Tứ Khổ:
Sanh, Lão, Bệnh, Tử. Hễ thoát khỏi Luân hồi thì hết Khổ, được trở về Cực Lạc
Niết Bàn. Ðó là mục đích của người tu.
Bực cao siêu: Hạng người
tài giỏi.
NHẮC: có 2 nghĩa: - Nghĩa
thứ nhứt là: Nhắc nhở cho nhớ. - Nghĩa thứ hai là: Nâng lên (người miền Bắc
thường nói là: Nhấc). Do đó Câu kinh 6 được giải thích theo 2 cách:
1) Cửa vào vòng Luân Hồi
nhắc nhở các bực tài giỏi ghi nhớ ráng làm sao cho thoát khỏi.
2) Cửa vào vòng Luân hồi
là để con người học hỏi tiến hóa, nâng mình lên phẩm vị cao siêu.
Câu 7: "Dầu chăng phải
mực Thiên điều."
Dầu chăng: Dầu thế nào đi
chăng nữa. Mực: Cái lằn mức giới hạn. Thiên điều: Các điều khoản Luật pháp của
Trời, được các Ðấng Thần Thánh Tiên Phật họp Ðại hội tại Ngọc Hư Cung lập ra để
điều hành sự vận chuyển và sự Tiến hóa của CKVT. Thiên điều được chép vào một
quyển sách gọi là Thiên Thơ (Thiên Thi, hay Thiên Thư).
C.7: "Dầu thế nào đi chăng nữa, phải tuân Thiên điều, không được vượt
qua mức giới hạn qui định trong Thiên điều."
Câu 8: "Cũng quyền tự
chủ dắt dìu Thiên lương."
Tự chủ: Tự mình làm chủ
lấy mình. Quyền tự chủ: Cái quyền riêng của mình tự định đoạt lấy cuộc đời
mình. Thiên lương: Thiên là Trời, lương là tốt đẹp. Thiên lương là cái tốt đẹp
mà Trời ban cho mỗi người. Ðó là cái Lương tâm, nó vốn lành, nên nó luôn luôn
hướng dẫn con người làm điều lương thiện đạo đức, và răn phạt con người khi làm
điều gian ác hung bạo.
C.8: "Mỗi người, ai cũng có cái quyền tự chủ, định đoạt cuộc đời mình
theo sự dìu dắt của Lương tâm."
Lương tâm, hay nói vắn tắt
là Tâm, là cái thể hiện của Chơn linh. Nếu Chơn linh không trau luyện cái Tâm,
để cho nó lu lờ yếu đuối, thì Lục dục Thất tình dấy lên làm chủ thể xác, xúi
biểu thể xác làm điều sái quấy, thì Chơn linh phải lãnh lấy tội tình và phải
chịu đọa đày theo Luật Nhân quả.
Câu 9-10: "Dòng khổ hải
hễ thường chìm đắm, "
"Mùi đau thương đã thấm Chơn linh."
Dòng khổ hải: Dòng nước trong biển khổ, chỉ
nỗi khổ của con người nơi cõi trần. Chìm đắm: Chìm sâu trong nước. Thấm: Ngấm
vào, nhiễm vào. Chơn linh: Linh hồn.
C.9-10: "Khi con người bị chìm sâu trong biển
khổ thì Chơn linh phải chịu nhiều nỗi đau thương."
Ý nói: Khi con người mãi
mãi luân chuyển chìm đắm trong cõi trần thì những nỗi đau thương sẽ thấm sâu
vào Chơn linh, làm Chơn linh rất đau khổ.
Câu 11: "Dây oan xe chặt buộc mình."
Dây oan: Sợi dây oan
nghiệt. Những việc làm không lương thiện của mình tạo thành những sợi dây oan
nghiệt vô hình buộc chặt Chơn thần của mình vào vòng Luân hồi để chịu Luật Nhơn
quả thể hiện. (Xem: Bảy dây oan nghiệt, Câu 3 Kinh Ðệ Nhứt Cửu). Xe chặt: Làm
cho sợi dây xoắn chặt lại.
C.11: "Những oan nghiệt gây ra tạo thành những sợi dây oan nghiệt vô
hình buộc chặt Chơn thần mình vào cõi trần."
Câu 12: "Nhớp nhơ lục dục thất tình nhiễm thân."
Nhớp nhơ: Dơ bẩn. Nhiễm:
Thấm vào. Thân: Xác thân. Nhiễm thân: Thấm vào xác thân.
Lục dục: 6 điều ham muốn
gồm:
Sắc dục là ham muốn nhìn thấy sắc đẹp.
Thinh dục là ham muốn nghe âm thanh êm tai.
Hương dục là ham muốn ngữi mùi thơm tho.
Vị dục là ham muốn ăn món ngon vật lạ.
Xúc dục là ham muốn da thịt được mát mẻ dễ chịu.
Ý dục là ham muốn được thỏa mãn ý nghĩ.
Thất tình: 7 thứ tình cảm
gồm:
Hỷ là
mừng rỡ.
Nộ là
giận hờn.
Ái là
thương yêu.
Ố là ghen ghét.
Ai là buồn phiền.
Lạc là vui vẻ.
Dục là ham muốn.
C.12: "Nhớp nhơ lục dục thất tình nhiễm thân, là Lục dục và Thất tình
xúi giục, xô đẩy con người vào vòng vật chất thấp hèn làm cho các thứ nhơ bẩn
thấm vào xác thân."
Câu 13: "Chịu ô trược Chơn thần nặng trịu."
Ô trược: Ô là bẩn thỉu, dơ
bẩn, Trược hay Trọc là dơ dáy, hôi hám. Ô trược là bẩn thỉu dơ dáy. Trái với Ô
trược là Thanh khiết. Chơn thần: Xác thân thiêng liêng. (Xem: C.18 PMCK). Nặng
trịu: Nặng như bị đè hẳn xuống.
Nơi cõi phàm trần, tức là
nơi quả Ðịa cầu 68 nầy, thanh khí thì ít, mà trược khí thì nhiều, lại nữa con
người dùng thịt các loài cầm thú làm thức ăn nuôi xác thân, mà các thứ thịt ấy
chứa rất nhiều chất trược, do đó:
C.13: "Chơn thần phải chịu ô trược nặng nề, nên khi Chơn thần xuất ra
khỏi thể xác thì nó nặng trĩu, không thể bay bổng lên được."
Câu 14: "Mảnh hình hài
biếng hiểu lương tâm."
Hình hài: Thể xác phàm.
Biếng hiểu: Làm biếng hiểu biết, ý nói không chịu nghe lời dạy bảo. Lương tâm:
Cái tấm lòng lành, đó là cái thể hiện của Chơn linh.
"Thầy đã nói nơi thân phàm các con, mỗi đứa Thầy
đều cho một Chơn linh gìn giữ cái chơn mạng sanh tồn. Thầy tưởng chẳng cần nói,
các con cũng hiểu rõ rằng: Ðấng Chơn linh ấy vốn vô tư, mà lại đặng phép giao
thông cùng cả chư Thần Thánh Tiên Phật và các Ðấng Trọn lành nơi Ngọc Hư Cung,
nhứt nhứt điều lành việc dữ đều ghi chép không sai, đặng dâng vào Tòa Phán xét.
Bởi vậy nên một mảy không qua, dữ lành đều có trả; lại nữa, các Chơn linh ấy, tánh
Thánh nơi mình, đã chẳng phải giữ gìn các con mà thôi, mà còn dạy dỗ các con,
thường nghe đời gọi lộn Lương tâm là đó." (TNHT. II. 66).
C.14: "Thể xác làm lơ trước những điều dạy bảo của lương tâm."
Lương tâm của mỗi người
thường dạy bảo xác thân làm điều hay sự phải, nên khi xác thân làm điều sái
quấy thì bị Lương tâm cắn rứt. Nhưng xác thân bị Lục dục Thất tình cám dỗ, xúi
giục, làm điều hèn hạ, thoả mãn lòng ham muốn vật chất. Ðối với những người mà
ý chí không mạnh mẽ thì
Lục dục Thất tình mạnh hơn
và lấn lướt Lương tâm, khiến xác thân làm lơ trước những điều dạy bảo của Lương
tâm.
Câu 15: "Phong trần quen thú cung âm."
Phong trần: Phong là gió,
trần là bụi. Phong trần là gió bụi, chỉ sự từng trải ở đời hay sự gian nan vất
vả ở đời.
Quen thú: Quen thuộc các
thú vui. Cung âm: Cung bậc của âm nhạc, chỉ cảnh đờn ca xướng hát trong các ca
lâu kỹ viện, chỗ ăn chơi trác táng.
C.15: "Ðã từng trải và quen thuộc các thú vui chơi đàn hát nơi chốn ca
lâu kỹ viện."
Câu 16: "Cảnh thăng ngơ ngẩn lạc lầm Phong đô."
Cảnh thăng: Cảnh của những
linh hồn siêu thăng tới ở, tức là cảnh Thiêng liêng Hằng sống. Ngơ ngẩn: Ở
trạng thái mà tâm trí như ở đâu đâu. Lạc lầm: Lầm đường lạc lối.
Phong đô: Tên của một vùng
đất thời xưa bên Tàu mà người ta tin rằng đó là Âm phủ.
Theo Phật giáo, Phong đô
là cõi Ðịa ngục, để giam giữ và trừng trị những linh hồn tội lỗi. Khi bị giam
vào đó rồi thì không thể nào trốn thoát được.
Theo Ðạo Cao Ðài với Ðại
Ân Xá kỳ ba, Ðức Chí Tôn ra lịnh đóng cửa Ðịa ngục, nên không còn cõi Ðịa ngục
nữa. Các linh hồn tội lỗi được đưa đến cõi Âm quang, là nơi để tịnh tâm định
trí, tự xét lại những lỗi lầm đã qua mà ăn năn sám hối, cầu xin Ðức Chí Tôn cứu
vớt. Tại cõi Âm quang có Ðức Ðịa Tạng Vương Bồ Tát giáo hóa các Nam tội hồn, và
Thất Nương DTC giáo hóa các Nữ tội hồn.
C.16: "Trong kiếp sanh đã làm nhiều điều lầm lạc sai trái, nên khi chết
đi, Chơn thần xuất ra, nhìn con đường đi về cõi TLHS mà lòng ngẩn ngơ vì không
thể lên đó được, bị đưa về cõi Âm Quang để tự xét mình và ăn năn sám hối tội
tình."
Câu 17-18: "Khối trái chủ
nhẫng lo vay trả."
"Mới gây nên nhân quả nợ đời."
Khối: Chỉ một đám người.
Trái chủ: Trái là món nợ, chủ là người làm chủ. Trái chủ là người chủ nợ, người
cho vay. Khối trái chủ: Chỉ chung đám chủ nợ và đám con nợ.
Nhẫng: Những, nghĩa là:
chỉ có, chỉ là.
Nhân quả: (đã giải thích
nơi câu 5). Nợ đời: Những món nợ ở đời tạo thành cái nghiệp mà mình phải đền
trả.
C.17-18: "Ðám chủ nợ và đám con nợ, kẻ chỉ lo
việc cho vay và đòi nợ, kẻ thì chỉ lo việc trả nợ, mới tạo nên việc nhân quả và
cái nghiệp nơi cõi đời."
Vì bị lẩn quẩn trong vòng
nhân quả liên tục như thế, nên con người không thể thoát ra khỏi luân hồi. Muốn
thoát khỏi luân hồi thì chỉ lo trả cho hết nợ mà không gây ra nợ mới, nghiệp
mới hay gây ra nhân mới, đồng thời lo lập công bồi đức, tùng theo Chơn pháp tu
hành.
KHẢO DỊ:
* Kinh TÐ-TÐ 1936, Kinh Lễ 1952: Mới gầy nên ...
* Kinh TÐ-TÐ năm 1968, 1974, 1975: Mới gây nên ...
Hai từ ngữ: Gầy nên và Gây nên, đồng nghĩa.
Câu 19: "Rảnh mình đâu đặng thảnh thơi."
Rảnh: Không vướng bận việc
gì hết.
Thảnh thơi: Nhàn hạ, thong
thả.
C.19: "Thân mình đâu có được rảnh rang (vì còn ở trong vòng vay trả) để
đặng thong dong nhàn hạ."
Câu 20: "Thiên cung lỡ lối chơi vơi cõi trần."
Thiên cung: Chỉ cõi Trời,
tức cõi TLHS.
Lỡ lối: Lỡ đường; đi được
một phần đường, chưa tới nơi tới chốn thì phải dừng lại. Chơi vơi: Trơ trọi
giữa khoảng rộng, không biết bám víu vào đâu.
C.20: "Lỡ đường về cõi TLHS, đành chịu trơ trọi bơ vơ nơi cõi trần."
Câu 21-22: "May đặng gặp
hồng ân chan rưới,"
"Giải trái oan
sạch tội tiền khiên."
Hồng ân: Hồng là to lớn.
Hồng ân là ơn huệ to lớn của Ðức Chí Tôn ban cho. Chan rưới: Ban bố đầy dẫy.
Giải: Cởi bỏ ra. Trái: Món
nợ. Oan: Thù giận. Giải trái oan: Cởi bỏ hết những món nợ thù giận đã gây ra
trong kiếp trước. Sạch tội: Hết tội. Tiền khiên: Tiền là trước, Khiên là tội
lỗi. Tiền khiên là tội lỗi đã gây ra trong các kiếp trước .
C.21-22: "May mắn gặp được ơn huệ to lớn của Ðức
Chí Tôn ban cho đầy dẫy, để cởi bỏ hết những mối nợ oan nghiệt và rửa sạch tiền
khiên."
Ðó là hiệu quả của Phép
Giải Oan mà Ðức Chí Tôn đã ban cho Ðạo Cao Ðài trong kỳ Ðại Ân Xá nầy.
Câu 23: "Ðóng Ðịa ngục, mở tầng Thiên."
Ðịa ngục: Cõi tối tăm thấp
kém nhất dùng để giam giữ, đày đọa và trừng phạt các linh hồn mà trong kiếp
sanh nơi cõi trần đã làm nhiều điều tội lỗi nặng nề.
Tầng Thiên: Các Từng Trời,
chỉ cõi Trời vì cõi Trời có nhiều từng Trời, đó là cõi của những linh hồn đắc
đạo siêu thăng, cõi của chư Thần Thánh Tiên Phật.
C.23: "Ðức Chí Tôn cho đóng cửa Ðịa ngục để
phóng thích các tội hồn, và mở rộng cửa các từng Trời để đón tiếp những linh
hồn đắc đạo."
Ðây là thể hiện thời kỳ
Ðại Ân Xá của Ðức Chí Tôn.
Câu 24: "Khai đường Cực Lạc, dẫn miền Tây phương."
Khai đường: Mở đường, dẹp
các chướng ngại trên đường, làm cho thông thoáng dễ đi.
Cực Lạc: Cực Lạc Thế giới,
ở về phía Tây, nên cũng gọi là Tây phương Cực Lạc, là cõi của chư Phật, hoàn
toàn an vui sung sướng. Phật gọi đó là cõi Cực Lạc Niết Bàn.
Theo Kinh A-Di-Ðà, cõi
CLTG có lầu đài nhà cửa, đường sá đều làm bằng 7 thứ châu báu (Thất bảo), có
hoa Tiên rớt xuống như mưa rất đẹp, có chim linh múa hát, có các bực La Hán, Bồ
Tát, Phật và những người nhơn đức tu hành, ăn uống khỏi cần nấu nướng, tự nhiên
có sẵn, áo quần làm bằng châu báu luôn luôn sạch sẽ và thơm tho, muốn đi đâu
tùy ý, không cần xe cộ hay máy bay, chỉ cất bước là bay tới rất nhanh đúng theo
ý muốn.
Trong thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ,
cõi CLTG đặt dưới quyền chưởng quản của Ðức Phật A-Di-Ðà.
Bây giờ bước qua thời Tam
Kỳ Phổ Ðộ, theo lời thuyết đạo của Ðức Phạm Hộ Pháp, Ðức Phật A-Di-Ðà, vâng
lịnh Ðức Chí Tôn, giao quyền chưởng quản CLTG cho Ðức Di-Lạc Vương Phật, Ðức
Phật A-Di-Ðà vào ngự nơi Lôi Âm Tự.
Miền Tây Phương: Ý nói cõi
Tây Phương Cực Lạc, hay cõi CLTG, vì cõi nầy ở về hướng Tây.
C.24: "Ðức Chí Tôn ra lịnh khai thông con đường dẫn tới cõi CLTG ở về
phía Tây, để những linh hồn đắc đạo đến được nơi đó mà an hưởng ngôi vị."
Tại sao phải khai thông
con đường đó? Bởi vì trước đây, con đường đó đã bị bế lại.
Nguyên từ buổi Bế Ðạo, con
đường đi từ Ngọc Hư Cung qua CLTG bị Quỉ Vương là Kim Quang Sứ bít ngõ, không
cho các Chơn linh đắc đạo nhập vào CLTG.
Ðức Chí Tôn ra lịnh cho
Ðức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung (Chơn linh là Lý Ngưng Dương hay Lý Thiết Quả,
một vị Ðại Tiên đứng đầu Bát Tiên) đánh đuổi Kim Quang Sứ, khai thông con đường
đi vào CLTG để các chơn linh đắc đạo đến được Cực Lạc Thế Giới. Rồi Ðức Chí Tôn
ra lịnh cho Ðức Hộ Pháp qua mở cửa CLTG cho các Chơn linh nhập vào.
Con đường TLHS, Ðức Phạm
Hộ Pháp thuyết đạo: "Bên đạo của ta là Ðức Lý Ngưng Dương đã diệt được bên
Kim Quang Sứ, tới chừng rốt cuộc chỉ còn Ðức Lý Ngưng Dương đánh với Kim Quang
Sứ mà thôi. Ðánh nhau một hồi, Ðức Lý Ngưng Dương đập Kim Quang Sứ một gậy thì
Kim Quang Sứ hóa hào quang đằng vân bay mất. Ði qua CLTG phải chăng vì lẽ ấy
trong đạo giáo nói Ðạo bị bế.
Khi tới gần cửa CLTG môn
ngoại, thấy có 2 cái chong chóng. Hai cái chong chóng ấy quay tròn luôn. Nếu
chúng ta lấy trí tưởng tượng chong chóng quay thì từ mặt dưới lên tới mặt trên
ít nữa cũng năm mười ngàn thước, đặng ngăn CLTG môn ngoại như Vạn lý Trường
thành, không có một người nào qua lọt. Hai cửa ấy, một cửa hóa hào quang trắng,
một cửa hóa hào quang đỏ hồng hồng. Mới ngó thấy 2 cửa ấy, Bần đạo không biết
gì hết. Tới chừng Bần đạo dùng cây Giáng Ma Xử trong thân, Bần đạo định thần,
chỉ ngay bảo ngừng thì nó liền ngừng lại, coi kỹ vòng tròn trắng ấy là Chữ VẠN.
Bần đạo vừa biểu ngừng thì mấy người ở Cực Lạc môn ngoại chạy ùa vào, chừng vô
được một mớ, Bần đạo chỉ bên kia biểu ngừng, cũng chạy được vô một mớ nữa. Vô
rồi thấy có một vị Phật đứng ở trên, hai tay bắt ấn liệng xuống chữ VẠN thì chữ
VẠN quay nữa, thành thử họ vô được một mớ.
Khi Bần đạo bắt đứng 2 chữ
VẠN lại, phải chăng vì nơi Cực Lạc môn ngoại có các đẳng chơn hồn đã đoạt vị mà
bị Pháp giới đã bế, khiến cho Bần đạo đến đó đặng bắt 2 chữ VẠN ngừng lại cho
họ vào, tới chừng vị Phật kia cho 2 chữ VẠN quay lại, Bần đạo dám chắc các đẳng
chơn hồn đã vô cửa CLTG đã hết. Ðó là Thánh ý của Ðức Chí Tôn, chớ không phải
theo con mắt của chúng ta tưởng đó là sự tình cờ.
Ấy vậy, Ðức Chí Tôn sai
qua mở cửa CLTG:
1 . "Vì đường từ Linh Tiêu Ðiện Ngọc Hư Cung qua
CLTG buổi nọ bị Kim Quang Sứ đón đường.
2 .
Các vị Tăng đồ từ trước có tu mà không thành, vì bị thất pháp bửu nên bị đồ lưu
nơi Cực Lạc môn ngoại.
Ðức Chí Tôn biểu qua đó dẫn các chơn hồn dành để cho
có ngôi vị nơi CLTG."
Câu 25: "Nhập Thánh thể dò đường cựu vị."
Nhập: Ði vào. Thánh thể:
Những vị Chức sắc Cửu Trùng Ðài đứng vào hàng Thánh đổ lên. Dò đường: Tìm
đường. Cựu vị: Ngôi vị cũ nơi cõi thiêng liêng.
Ðức Chí Tôn mở Ðạo gồm 3
Ðài:
Bát Quái Ðài là Linh hồn
của Ðạo: tức là THẦN, vô hình.
Hiệp Thiên Ðài là Chơn
thần của Ðạo: KHÍ, bán hữu hình.
Cửu Trùng Ðài là Thể xác
của Ðạo: TINH, hữu hình.
Những vị Chức sắc Cửu
Trùng Ðài đứng vào hàng Thánh đổ lên (tức là từ phẩm Giáo Hữu đổ lên) được gọi
là Thánh thể của Ðạo hay Thánh thể của Ðức Chí Tôn.
Nhập Thánh thể: Ði vào làm
Chức sắc đứng hàng Thánh thể của Ðức Chí Tôn. Muốn vậy, phải nhập môn vào Ðạo,
lập công bồi đức, tùng theo Luật pháp Chơn truyền, trọn đời hiến thân hành Ðạo,
phụng sự nhơn sanh, đi từ phẩm cấp Chức việc Bàn Trị Sự, rồi cầu phong lên phẩm
Lễ Sanh, sau đó đủ công nghiệp thì cầu thăng lên hàng Giáo Hữu. Tới đây thì
được gọi là Nhập vào Thánh thể của Ðức Chí Tôn.
C.25: "Nhập Thánh thể dò đường cựu vị, nghĩa là: Ði vào làm Thánh thể
của Ðức Chí Tôn thì mới dò tìm được con đường trở về ngôi vị cũ."
Câu 26: "Noi chơn truyền khử quỉ trừ ma."
Noi: Học tập và làm theo.
Chơn truyền: Chơn là thật, truyền là trao lại. Chơn truyền là giáo lý chơn thật
do vị Giáo chủ truyền lại, người tu đúng theo đó thì nhứt định đắc đạo.
Khử quỉ trừ ma: Khử trừ ma
quỉ. Khử trừ là loại bỏ.
Quỉ ma là những linh hồn mà trong kiếp sanh đã
làm nhiều điều quá ác độc, phạm Thiên điều, bị đọa làm Ma Quỉ. Con người, hễ khi làm
mất hết chơn dương thì phải thuần
âm, tất phải chết, mà chết như vậy thì trở thành Ma Quỉ, làm tôi tớ cho Quỉ Vương. Lũ Quỉ ma ấy rất
ghen ghét người tu, chúng luôn luôn tìm cách phá phách hay thử thách, hoặc dụ
dỗ người tu hành đi vào đường xấu xa như bọn chúng. Phải có một cái Tâm chơn
chánh, một ý chí mạnh mẽ sáng suốt, mới có thể vượt qua các cạm bẫy thử thách
của bọn chúng, mới thắng được chúng, mới có thể đắc đạo.
C.26: "Học tập và làm đúng theo giáo lý Chơn truyền thì khử trừ được bọn
ma quỉ phá phách."
Câu 27: "Huệ quang chiếu thấu chánh tà."
Huệ quang: Ánh sáng của
trí huệ. Trí huệ là sự thông suốt hiểu rõ đạo lý. Trí huệ có được là do công
phu tu luyện lâu dài. Chiếu: Soi rọi. Thấu: Biết rất rõ.
Chánh Tà: Chánh là ngay
thẳng, đúng đắn, hợp với đạo lý; Tà là cong vẹo, không hợp với đạo lý. Chánh Tà
luôn luôn đối chọi nhau, tranh giành nhau, nhưng cuối cùng thì Chánh luôn luôn
thắng Tà để bảo tồn Chơn lý.
TNHT. II. 96: "Tà Chánh, cười ... Bần đạo nói thiệt,
cũng chưa dám định đoạt. Trong cái rủi thường có cái may, trong cái may vẫn
khép cầm sự rủi, khó lường được. Ðiều cần là nên làm mà thôi. Nếu luận Tà Chánh
thì chưa một ai dám, còn mang xác phàm, xưng tụng mình là Chánh. Cái Tà vì
Thiên thơ xử dụng, Tà vì cơ thử thách của Tam Giáo Tòa, Tà vì những quỉ xác ma
hồn lẫn lộn của Quỉ Vương để làm cho công phu lỡ dở. Mỗi cái Tà có duyên cớ ấy,
ngày sau đều có sự biến đổi thiêng liêng, hoặc có một kết quả."
C.27: "Dùng ánh sáng Trí Huệ soi rọi thì mới rõ thấu được lẽ Chánh và lẽ
Tà."
Câu 28: "Chèo thuyền Bát Nhã Ngân hà độ sanh."
Thuyền Bát Nhã: Chiếc
thuyền Trí Huệ đưa người đầy đủ phước đức từ bến mê, vượt qua biển khổ, đến cõi
TLHS. Ðộ sanh: Cứu giúp đưa vào cõi Hằng sống. Ngân hà: Sông Ngân. Ngân hà
thuộc biển khổ nơi cõi thiêng liêng.
Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết
đạo Con đường TLHS, có đoạn nói về sông Ngân hà có chiếc thuyền Bát Nhã như
sau:
"Khi dòm lại thế gian phía sau lưng hiện ra như
một con sông đại hải, thấy bờ bên nây người ta đứng nhiều lắm, người nào cũng
có hào quang chiếu diệu đẹp đẽ vô cùng, còn ở mé bờ bên kia sông, cũng đông
người lắm, nhưng hình thể họ khô khan, đau thảm, tiều tụy. Họ ước ao làm sao
qua được con sông ấy. Sông đó là sông Ngân hà. Trên sông có một chiếc Thuyền
Bát Nhã do Ðức Quan Âm Bồ Tát, vâng lịnh Ðức Phật Di-Lạc đi độ sanh, chèo
thuyền qua lại để rước những người đầy đủ phước đức."
C.28: "Chèo Thuyền Bát Nhã Ngân hà độ sanh, nghĩa là: Ðức Quan Âm Bồ Tát
chèo chiếc Thuyền Bát Nhã đi qua đi lại trên sông Ngân hà thuộc biển khổ để cứu
giúp những người đầy đủ phước đức đưa qua bờ giác đi vào cõi TLHS."
Câu 29: "Cứ nương bóng Chí Linh soi bước."
Nương: Dựa vào. Bóng: Ánh
sáng. Chí Linh: Ðức Chí Tôn. Soi bước: Rọi sáng để thấy đường bước tới.
C.29: "Cứ dựa theo ánh sáng của Ðức Chí Tôn soi rọi mà bước tới."
KHẢO
DỊ:
*
Kinh Lễ in bên Pháp năm 1952 và Kinh TÐ-TÐ năm 1936, 1968, 1974: Cứ nương bóng
...
*
Kinh TÐ-TÐ năm 1975: Cứ noi bóng ...
Câu 30: "Gội mê đồ tắm nước Ma-Ha."
Gội: Xối nước lên đầu để
rửa sạch chất bẩn dính trên đầu. Thường nói là: Tắm gội. Mê đồ: Mê là mờ hồ,
sai lầm; đồ là con đường đi. Mê đồ là con đường lầm lạc. Con người vô minh, lầm
lạc là do Lục dục Thất tình che khuất Lương tâm. Hễ kềm giữ và điều khiển được
Lục dục Thất tình thì vén được bức màn vô minh, cái Tâm được tỏ rạng. Gội mê
đồ: Gội rửa cho sạch hết các u mê lầm lạc.
Nước Ma-Ha: Ðó là Ma-Ha thủy. Ma Ha, tiếng phạn nghĩa là lớn, nước Ma Ha là nước của con
sông lớn bên xứ Ấn Ðộ, mà thuở xưa, Ðức Thích Ca xuống tắm sông ấy để tẩy trần, đắc
đạo thành Phật. Ðó là sông Gange, dịch là Hằng hà.
C.30: "Gội
mê đồ tắm nước Ma-Ha, là: Gội rửa cho sạch hết những cái u mê lầm lạc và tắm
bằng nước sông Hằng để rửa sạch
những oan nghiệt tội tình của kiếp sống."
Theo lời giảng giải của Ngài Ðầu Sư Thượng Sáng
Thanh, trong quyển "Bí Truyền Chơn
Pháp":
"Khi Thái Tử Sĩ Ðạt Ta xuống núi đến rừng Bồ Ðề
vừa chí thì mệt mỏi quá chừng, thân hình rủ riệt, thần kinh lờ mờ, sa vào một
cội Bồ Ðề mà chết giấc. Nhờ chết giấc ấy mới xuất Thần đặng hội diện cùng chư
Phật, thấy rõ trước mắt Ðịa ngục, Niết Bàn. Ấy là giờ của Người đạt Pháp. Duy
có lạ một điều là cả cảnh tượng ấy mịt mịt mờ mờ, Người không gần đặng. Thoạt
thấy một vị Bồ Tát dặn rằng: Thây phàm xác tục của Người và Chơn thần của Người
đã chịu gánh nhiều quả kiếp, cho nên ô trược nhuốc nhơ, khi tái nhập thế trần,
phải đến sông Ma-Ha tẩy trược.
Trong cơn ấy, có người đàn bà bưng bình bát sữa vừa
đến rừng Bồ Ðề, tìm chẳng thấy ai khác hơn là một thầy tu nằm dựa gốc cây mà
chết, chỉ rờ nơi ngực còn nghe hơi ấm của trái tim, vội vàng biểu tỳ nhi và
mình ra tay hô hấp. Phật vừa tỉnh dậy thì nàng dâng bình bát sữa cho Người.
Phật uống đặng bình bát sữa ấy, rồi trụ Thần, định Khí, mạnh lại như xưa. Ấy là
cơ hiệp nhứt Tam Bửu (Tinh, Khí,Thần). Tinh là hình hài, Khí là Chơn thần, Thần
là Chơn linh.
Nhờ Tam Bửu phối tế, Người định giác lần lần, thấy
đặng cõi Hư linh và cõi phàm xa nhau không đầy một sợi tóc. Thăng thì đến cõi
Hư linh, đọa thì sa vào phàm tục.
Khi đã định Tâm đạt pháp rồi, Phật liền nhớ lời dặn
của Bồ Tát, nên lần hồi tới bãi sông Gange (Hằng hà), nhưng có điều lạ là Chơn
thần và xác thịt của Ngài chưa trọn tương liên hòa hiệp, nên Ngài mới mờ hồ,
chưa biết chắc mình đã quả nhiên đạt pháp. Xuống tắm sông Gange rồi lên bờ, cầm
bình Bát vu nơi tay mà vái rằng: "Nếu quả nhiên tôi đã đặng đạt pháp, xin
chư Phật cho cái bình Bát vu nầy trôi ngược dòng nước." Nói đoạn, Ngài
liệng bình Bát vu giữa dòng thì Bình Bát vu từ từ trôi ngược dòng nước. Ðức
Phật mừng quá, ngoắt nó vô bờ, cầm bình Bát vu mà nói rằng: "Nước sông
Gange nó sẽ rửa sạch oan nghiệt tội chướng chi đọa."
Kể từ ngày tắm nước sông Gange rồi, mỗi phen trì định
xuất Thần, Phật mới đến đặng gần chư Phật, nhập vào Tây phương Cực Lạc. Ấy là
nhờ Phép Giải Oan mà đạt vị."
Khi Chức sắc hành Phép
Giải Oan thì phải luyện Ma Ha Thủy trước. Cách luyện Ma Ha Thủy như sau:
Múc một tô nước để tại
Thiên Bàn. Người hành pháp đứng trước, định Thần ngó ngay lên Thiên Nhãn, vẽ
bằng con mắt chữ (.) trong con ngươi của Thiên Nhãn, rồi co chân trái vẽ chữ
(.), đạp lên chữ (.) ấy, rút chân mặt ký chữ (.) gọi là đạp Ðinh Giáp. Khi hành
pháp như vậy rồi thì tay trái bắt ấn Hộ Pháp để ngay ngực, tay mặt cũng bắt ấn
Hộ Pháp để trên tô nước buông ấn ra, co ngón tay giữa vẽ bùa (.), đoạn ngay
ngón tay ra truyền thần xuống nước, niệm Câu Chú: "Ma Ha Thủy năng hủy oan nghiệt tội chướng chi đọa."
Nhắm mắt định Thần, đợi
thấy Thiên Nhãn giáng trên mặt nước thì xả ấn. Ma Ha Thủy đã luyện thành.
Hành Pháp Giải Oan:
Cầm tô nước nơi tay mặt,
đến trước mặt người được giải oan, biểu cúi đầu xuống, lấy con mắt vẽ chữ (.)
ngay Nê Huờn Cung. Hễ vẽ vừa xong liền chụp 5 ngón tay trái lên mỏ ác gọi là ấn
Ngũ Hành Sơn, vừa chụp vừa niệm Câu Chú nầy:
"Úm Ma Ni Bát Rị Hồng."
Ðoạn cầm tô nước đổ ngay
xuống mỏ ác 1 giọt niệm: "Nam mô
Phật", rồi giọt thứ 2 niệm: "Nam
mô Pháp", rồi trút hết tô nước niệm: "Nam mô Tăng", "Nam mô Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha
Tát."
Phép Giải Oan đã làm xong.
Người được giải oan lạy
Ðức Chí Tôn 3 lạy 12 gật, rồi đứng dậy lui ra.
Câu 31: "Liên đài may
nở thêm hoa."
Liên đài: Tòa sen, chỉ
ngôi vị Phật hay Bồ Tát. Phật dùng hoa sen làm tòa ngự vì hoa sen có những đặc
tánh quí báu là sen mọc trong bùn dơ mà không nhiễm mùi dơ của bùn, lại trổ ra
hoa sen thơm ngát; cũng giống như Phật, xuống cõi trần đầy ô trược mà không
nhiễm một chút trược trần.
C.31: "Tòa sen may mắn nở thêm một cái hoa, ý nói: Rất may mắn có thêm
một vị Phật mới đắc đạo, cho nên Tòa sen nở thêm một cái hoa để làm tòa ngự cho
Ngài."
Câu 32: "Lão Ðam cũng biết, Thích Già cũng quen."
Lão Ðam: Một biệt hiệu của Ðức Lão Tử. Ngài là
chơn
linh của Ðức Thái Thượng Ðạo Tổ giáng phàm. Ðức Lão Tử là Giáo chủ Tiên
giáo thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ.
Thích Già [釋 迦] Chữ Hán nầy có 2 cách đọc: Thích Ca hay Thích Già, tùy theo trường hợp trong thơ văn, sao cho có nhạc điệu, vì chữ Ca thuộc
Bình thượng, chữ Già thuộc Bình hạ. Thích Già là Ðức Phật Thích Ca, Giáo chủ
Phật giáo thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ.
C.32: "Khi đắc đạo rồi thì lên bái kiến Ðức
Lão Tử, tức là Ðức Thái Thượng Lão Quân, và bái
kiến Ðức Phật Thích Ca."
[ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ] [ 8 ] [ 9 ] [ 10 ] [ 11 ] [ 12 ] [ 13 ] [ 14 ] [ 15 ] [ 16 ] [ 17 ] [ 18 ] [ 19 ] [ 20 ] [ 21 ] [ 22 ] [ 23 ] [ 24 ] [ 25 ] [ 26 ] [ 27 ] [ 28 ] [ 29 ] [ 30 ] [ 31 ] [ 32 ] [ 33 ] [ 34 ] [ 35 ] [ 36 ] [ 37 ] [ 38 ] [ 39 ] [ 40 ] [ 41 ] [ 42 ] [ 43 ] [ 44 ] [ 45 ] [ 46 ] [ 47 ] [ 48 ] [ 49 ] [ 50 ] [ 51 ] [ 52 ] [ 53 ] [ 54 ] [ 55 ] [ 56 ] [ 57 ] [ 58 ] [ 59 ] [ 60 ] [ 61 ] [ 62 ] [ 63 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét