Giải Nghĩa Kinh Thiên Đạo Thế Đạo - 60 / 63 (HT.Nguyễn Văn Hồng)


KINH CẦU BÀ CON THÂN BẰNG CỐ HỮU ÐÃ QUI LIỄU (Giọng Nam ai)
1. "Khi dương thế không phân phải quấy,
2. Nay hư linh đã thấy hành tàng.
3. Chí Tôn xá tội giải oan,
4. Thánh Thần Tiên Phật cứu nàn độ căn.
5. Ðã tầng chịu khó khăn kiếp sống,
6. Ðịnh tâm thần giải mộng Nam Kha.
7. Càn khôn để bước Ta-bà,
8. Ðoạt cơ thoát tục tạo nhà cõi Thiên.
9. Ơn Tạo Hóa tha tiền khiên trước,
10. Ðưa linh phan tiếp rước nguyên nhân.
11. Tiên phong phủi ngọn phất trần.

12. Liên đài đỡ gót đến gần Tây phương.
13. Cửa Cực Lạc đon đường thẳng tới,
14. Tầm Không môn đặng đợi Như Lai.
15. Hào quang chiếu diệu Cao Ðài,
16. May duyên nay đã gặp ngày siêu sanh.
17. Trụ nguyên tánh hồn linh nhàn lạc,
18. Cõi Ðào nguyên cỡi hạc thừa long.
19. Lánh xa trược chất bụi hồng,
20. Cung Tiên sớm tối vui vòng thung dung.
21. Nơi Cung ngọc học thông đạo cả,
22. Chốn Hư vô Tạo Hóa tìm cơ.
23. Trên đường Thánh đức lần dò,
24. Trường sanh mầu nhiệm nơi lò Hoá Công.
25. Khá từ bỏ xa dòng bể khổ,
26. Diệt trần tình Cam lộ tẩy nhơ.
27. Ngân kiều Bát Nhã qua bờ,
28. Ðưa duyên để bước kịp giờ siêu thăng."

GIẢI NGHĨA
Bà con: "Những người có quan hệ họ hàng hay thân thiết gần gũi. Thân bằng: Bạn thân. Cố hữu: Bạn cũ. Cố là xưa, cũ; hữu là bạn. Qui liễu: Ý nói chết."

Câu 1-2: "Khi dương thế không phân phải quấy,"
"Nay hư linh đã thấy hành tàng."
Dương thế: Dương là cõi của người sống, thế là cõi đời. Dương thế là cõi trần, cõi của nhơn loại đang sống.
Hư linh: Hư là hư vô, trống không, xem không thấy gì cả nhưng rất huyền diệu; linh là TL. Hư linh là cõi Hư vô TL, tức là cõi TLHS. Hành tàng: Hành là làm với hành động cụ thể thấy rõ, tàng là những việc làm giấu kín. Hành tàng là tất cả việc làm thấy rõ hay còn ẩn kín. Sách Luận Ngữ có câu: Dụng chi tắc hành, xử chi tắc tàng. Nghĩa là: Dùng thì ra làm (ý nói ra làm quan), không dùng thì ẩn kín (ý nói đi ở ẩn).
C.1-2: "Khi sống nơi cõi trần, còn mang xác phàm nên trí não mê mờ, không phân được lẽ phải và lẽ quấy. Nay linh hồn cởi bỏ xác phàm, trở về cõi Thiêng liêng thì đã thấy rõ mọi việc làm hiện ra hay còn ẩn kín."

Câu 3-4: "Chí Tôn xá tội giải oan,"
"Thánh Thần Tiên Phật cứu nàn độ căn."
Xá tội: Tha tội. Giải oan: Cởi bỏ hết các oan nghiệt.
Ðây là thời kỳ Ðại Ân Xá, Ðức Chí Tôn xá tội và giải oan cho tất cả người nào biết hồi đầu hướng thiện, nhập môn cầu đạo, lo việc tu hành. Ðộ căn: Ðộ là cứu giúp; căn là gốc rễ, chỉ những việc làm sái quấy trong kiếp trước tạo ra nghiệp ác gây ảnh hưởng xấu trong kiếp sống nầy. Ðộ căn là cứu giúp thoát khỏi các nghiệp ác.
C.3-4: "Ðức Chí Tôn tha tội và cởi bỏ hết các oan nghiệt trong kỳ Ðại Ân Xá nầy. Chư Thần Thánh Tiên Phật cứu giúp thoát khỏi các tai nạn và ác nghiệp."

Câu 5-6: "Ðã tầng chịu khó khăn kiếp sống,"
"Ðịnh tâm thần giải mộng Nam Kha."
Ðã tầng chịu: Ðã từng gánh chịu. Ðịnh: Sắp đặt cho yên ổn. Tâm thần: Tâm là chơn linh, thần là chơn thần. Ðịnh tâm thần là sắp đặt cho chơn linh và chơn thần được yên ổn. Giải: Phân tích cho hiểu rõ.
Mộng Nam Kha: Ðiển tích: Ông Lý công Tá, đời nhà Ðường, làm sách Nam Kha, có chép một truyện sau đây:
Thuần Vu Phẩn nằm mộng thấy đi tới nước Hòe An, được vua nước nầy đem lòng thương mến gả công chúa cho, rồi bổ làm Thái Thú đất Nam Kha, công danh thật là hiển hách. Sau đó, Thuần Vu Phẩn được lệnh vua cầm quân đi đánh giặc, chẳng may bị thua; ở nhà công chúa lại đau bịnh chết. Vua nghi ngờ rồi cất chức đuổi đi. Thuần Vu Phẩn quá thất vọng và buồn rầu, liền giựt mình thức dậy, thấy mình đang nằm ngủ quên dưới cội cây Hòe, nơi cành cây phía nam, có một con kiến chúa đang nằm trong tổ kiến.

Thuần Vu Phẩn nhớ lại giấc chiêm bao của mình, so sánh với thực tế chung quanh, thì chợt hiểu rằng: Cây Hòe là nước Hòe An, cành cây phía nam là đất Nam Kha, và vua nước Hòe An là con kiến chúa.
Ông lấy làm chán nãn, thấy rõ cuộc đời chẳng khác chi một giấc mộng, không có chi là trường cửu, nên ông tìm đường lên núi học đạo tu Tiên.
Từ điển tích nầy, người ta rút ra các thành ngữ: Giấc Nam Kha, Mộng Nam Kha, Giấc Hòe, để chỉ cuộc đời là giả tạm, công danh phú quí như giấc chiêm bao.
Mộng Nam Kha đồng nghĩa với Huỳnh lương mộng.
C.5-6: "Ðã từng chịu nhiều nỗi khó khăn vất vả trong kiếp sống. Hãy định cho yên ổn chơn linh và chơn thần để hiểu rõ công danh phú quí nơi cõi trần chỉ là giấc mộng."

Câu 7-8: "Càn khôn để bước Ta-bà,"
"Ðoạt cơ thoát tục tạo nhà cõi Thiên."
Càn khôn: CKVT. Ta-bà: chỉ các cõi trần. (Xem: Ta-bà Thế giới DLCK). Ðể bước Ta-bà: Ði xuống cõi trần, ý nói đầu kiếp xuống cõi trần để làm một người nơi cõi trần.
Thoát tục: Thoát khỏi cõi trần. Ðoạt cơ thoát tục: Ðoạt được cơ quan mầu nhiệm của Ðức Chí Tôn thì đắc đạo, linh hồn thoát khỏi cõi trần, trở về cõi TLHS.
Tạo nhà cõi Thiên: Ý nói tạo được ngôi vị cao trọng nơi cõi TLHS. (Giống C.16 KXH: Mượn hình Thánh Thể cất nhà cõi Thiên.)
C.7-8: "Trong CKVT, các chơn linh phải đầu kiếp xuống cõi trần để có xác thân phàm, nhờ nó mà lập được công quả và tu luyện, đoạt được cơ quan mầu nhiệm của Ðức Chí Tôn, đắc đạo, thoát khỏi cõi trần, tạo được ngôi vị nơi cõi TLHS."

Câu 9-10: "Ơn Tạo Hóa tha tiền khiên trước,"
"Ðưa linh phan tiếp rước nguyên nhân."
Ơn Tạo Hóa: Ơn của Ðức Chí Tôn. Tha tiền khiên trước: Tha thứ các lỗi lầm đã gây ra trong kiếp sống trước.
Linh phan: Phướn linh, cây phướn thiêng liêng.
Nguyên nhân: Những người mà chơn linh của họ được sanh ra từ lúc khai Thiên. Hiện nay còn 92 ức nguyên nhân đang trầm luân nơi cõi trần. Ðạo Cao Ðài có nhiệm vụ cứu vớt hết số nguyên nhân nầy. (Xem: C.7 PG).
C.9-10: "Ðức Chí Tôn đại khai ân xá, tha thứ các lỗi lầm trong các kiếp sống trước, đưa cây phướn linh để rước các nguyên nhân trở về cõi Thiêng liêng."

Câu 11-12: "Tiên phong phủi ngọn phất trần."
"Liên đài đỡ gót đến gần Tây phương."
Tiên phong: Dáng dấp của Tiên, chỉ các vị Tiên.
Phủi: Ðập nhẹ cho bụi rơi xuống. Ngọn Phất trần: Cái đầu của cây Phất trần. Phất là quét, trần là bụi bặm. Phất trần là cây chổi Tiên để quét sạch các thứ bụi bặm dơ bẩn bám vào chơn thần, để chơn thần được thanh nhẹ bay trở về cõi Thiêng liêng. Phất trần còn được gọi là Phất chủ.
Liên đài: Ðài sen. Trong câu nầy, Liên đài đồng nghĩa với Liên thần trong C.5 KKÐCR: Dưới chín lớp liên thần đưa bước. Khi chơn hồn bước lên đứng trên liên đài nầy thì liên đài bay lên đưa chơn hồn đến cõi CLTG.
Tây phương: chỉ cõi CLTG ở về hướng Tây.
C.11-12: "Các vị Tiên dùng cây Phất chủ quét sạch bụi bặm bám vào chơn thần, để chơn thần được trong sạch nhẹ nhàng, đứng trên liên đài để liên đài đưa lên cõi CLTG."

Câu 13-14: "Cửa Cực Lạc đon đường thẳng tới,"
"Tầm Không môn đặng đợi Như Lai."
Ðon đường: Hỏi thăm đường đi. Tầm: Tìm kiếm.
Không môn: Cửa Không, ý nói cửa Phật, vì giáo lý của Phật chủ trương tất cả đều không: Ngã không, Pháp không, Sắc không, vv. Như Lai: Phật.
C.13-14: "Hỏi thăm đường đi thẳng tới cửa CLTG, tìm cửa Phật đặng chờ đợi gặp Phật."

Câu 15-16: "Hào quang chiếu diệu Cao Ðài,"
"May duyên nay đã gặp ngày siêu sanh."
Hào quang: Ánh sáng tỏa ra từ chơn thần của một Ðấng Thiêng liêng. Chiếu diệu: Chiếu sáng rực rỡ.
Cao Ðài: Danh xưng của Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế trong ÐÐTKPÐ. May duyên: Cơ hội may mắn.
Siêu sanh: Siêu là vượt lên trên, sanh là sống. Siêu sanh là vượt lên trên cõi trần để lên sống nơi cõi TLHS.
C.15-16: "Ánh hào quang của Ðức Chí Tôn chiếu sáng rực rỡ, cơ hội may mắn cho các chơn hồn được siêu thăng, lên sống nơi cõi Thiêng liêng Hằng sống."

Câu 17-18: "Trụ nguyên tánh hồn linh nhàn lạc,"
"Cõi Ðào nguyên cỡi hạc thừa long."
Trụ: Giữ vững. Hồn linh: Linh hồn.
Nguyên tánh: Nguyên là nguồn gốc, khởi đầu. Nguyên tánh là cái bổn tánh của con người. Cái bổn tánh ấy vốn lành (Nhơn chi sơ, tánh bổn thiện). Vậy, nguyên tánh là cái bổn tánh lành của con người. Trụ nguyên tánh là giữ vững cái tánh lành của mình. Nhàn lạc: Nhàn hạ và vui vẻ.
Ðào nguyên: chỉ cảnh Tiên. (Xem điển tích: C.5 KKV)
Cỡi hạc thừa long: Cỡi lên chim hạc, hoặc cỡi lên con rồng. Thừa là cỡi. Long là con rồng.
C.17-18: "Giữ vững cái bổn tánh lành của mình để cho linh hồn được an nhàn vui vẻ, được cỡi lên chim hạc hoặc cỡi lên con rồng đi chơi nơi cảnh Tiên."

Câu 19-20: "Lánh xa trược chất bụi hồng,"
"Cung Tiên sớm tối vui vòng thung dung."
Trược chất: Các chất khí dơ bẩn.
Bụi hồng: Bụi đỏ, do chữ Hồng trần, chỉ chung các thứ dơ bẩn ô trược nơi cõi trần. Cung Tiên: chỉ cõi Tiên. Vui vòng thung dung: Vui vẻ trong cảnh thảnh thơi nhàn hạ.
C.19-20: "Nên lánh xa cõi trần có nhiều thứ dơ bẩn, đi lên cõi Tiên, sớm tối vui vẻ trong cảnh thảnh thơi nhàn hạ."

Câu 21-22: "Nơi Cung ngọc học thông đạo cả,"
"Chốn Hư vô Tạo Hóa tìm cơ."
Cung ngọc: Cung điện bằng ngọc, chỉ cõi Tiên. Học thông: Học tập cho biết rõ. Ðạo cả: Cả là lớn. Ðạo cả là mối đạo lớn, tức là nền Ðại Ðạo của Ðức Chí Tôn. Chốn Hư vô: Cõi trống không, thấy không có gì cả nhưng rất huyền diệu.
Tạo Hóa: chỉ Ðức Chí Tôn. Tìm cơ: Tìm cho ra cơ quan mầu nhiệm của Ðức Chí Tôn để được đắc đạo.
C.21-22: "Nơi cõi Tiên, học tập thông suốt nền Ðại Ðạo của Ðức Chí Tôn, để tìm ra cơ quan mầu nhiệm nơi cõi Hư vô."

Câu 23-24: "Trên đường Thánh đức lần dò,"
"Trường sanh mầu nhiệm nơi lò Hoá Công."
Thánh đức: Cái đức của bực Thánh. Ðường Thánh đức: Ý nói con đường đạo đức. Lần dò: Dò dẫm lần đi từng bước.
Trường sanh: Sống lâu dài, hằng sống.
Mầu nhiệm: Huyền diệu, như có phép lạ, không thể giải thích được bằng lý lẽ thông thường. Lò Hóa Công: Cái lò sản xuất của Ông thợ tạo hóa, chỉ Ðức Chí Tôn.
C.23-24: "Từ từ lần bước trên con đường đạo đức thì sẽ được hằng sống nơi cõi TL mầu nhiệm của Ðức Chí Tôn."

Câu 25-26: "Khá từ bỏ xa dòng bể khổ,"
"Diệt trần tình Cam lộ tẩy nhơ."
Diệt trần tình: Tiêu diệt những tình cảm xấu của con người, bằng cách chuyển hóa nó vào đường cao thượng. (Xem chi tiết: C.14 KKÐCR). Cam lộ: Cam là ngọt, lộ là giọt sương. Cam lộ hay Cam lồ là nước sương ngọt, là thứ nước huyền diệu do các Ðấng Tiên, Phật chế luyện, dùng để tẩy rửa chơn thần cho trong sạch. Tẩy nhơ: Rửa cho mất hết các vết dơ bẩn.
C.25-26: "Khá nên từ bỏ và xa lánh biển khổ, tiêu diệt các thứ tình cảm xấu và nhờ nước Cam lồ tẩy sạch chơn thần."

Câu 27-28: "Ngân kiều Bát Nhã qua bờ,"
"Ðưa duyên để bước kịp giờ siêu thăng."
Ngân kiều: Cây cầu bắc qua sông Ngân Hà nơi cõi TL. Ngân Hà nối liền với biển khổ, qua được Ngân Hà là qua biển khổ, đến cõi TLHS. Bát Nhã: do phiên âm chữ Phạn: Prajnâ, dịch là Trí huệ, nghĩa là sự hiểu biết hoàn toàn sáng suốt về Ðạo lý. Người đạt được trí huệ thì đắc đạo. Ðưa duyên: Ðưa người có duyên phần. Siêu thăng: Bay lên cõi TLHS.
C.27-28: "Người đắc đạo dùng trí huệ mới bước lên được Ngân kiều, đi qua Ngân Hà, đến được bờ bên kia; đưa người có duyên phần kịp giờ siêu thăng lên cõi TLHS."
1 ]  2 ]  3 ]  4 ]  5 ]  6 ]  7 ]  8 ]  9 ]  10 ]  11 ]  12 ]  13 ]  14 ]  15 ]  16 ]  17 ]  18 ]  19 ]  20 ] [ 21 ]  22 ]  23 ]  24 ]  25 ]  26 ]  27 ]  28 ]  29 ]  30 ]  31 ]  32 ]  33 ]  34 ]  35 ]  36 ]  37 ]  38 ]  39 ]  40 ]  41 ]  42 ]  43 ]  44 ]  45 ]  46 ]  47 ]  48 ]  49 ]  50 ]  51 ]  52 ]  53 ]  54 ]  55 ]  56 ]  57 ]  58 ]  59 ]  60 ]  61 ]  62 ]  63 ]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét