Giải Nghĩa Kinh Thiên Đạo Thế Đạo - 28 / 63 (HT.Nguyễn Văn Hồng)


Kinh Ðệ Nhứt Cửu (Giọng Nam xuân)
1. "Vườn Ngạn Uyển sanh hoa đã héo.
2. Khối hình hài đã chịu rã tan.
3. Bảy dây oan nghiệt hết ràng,
4. Bợn trần rửa sạch muôn ngàn đau thương.
5. Kìa Thiên cảnh con đường vòi vọi.
6. Ánh Hồng Quân đương chói Ngọc Lầu.
7. Cung Thiềm gắng bước cho mau.
8. Thoát ba Thần phẩm đứng đầu Tam Thiên.
9. Khá tỉnh thức tiền duyên nhớ lại,
10. Ðoạn cho rồi oan trái buổi sanh.
11. Ðem mình nương bóng Chí Linh,
12. Ðịnh tâm chí Thánh mới gìn ngôi xưa.
13. Hồn định tỉnh đã vừa định tỉnh.
14. Phách anh linh ắt phải anh linh.
15. Quản bao Thập ác Lục hình,
16. Giải thi thoát khổ diệt hình đoạt căn."
(Niệm Câu Chú của Thầy 3 lần)

GIẢI NGHĨA
Kinh Ðệ Nhứt Cửu do Nhứt Nương DTC giáng cơ ban cho. Nhứt Nương có nhiệm vụ cai quản Vườn Ngạn Uyển của Ðức Phật Mẫu, và hướng dẫn các Chơn hồn vừa mới thoát xác, lên từng Trời thứ nhứt, đến Vườn Ngạn Uyển xem cái hoa của mình mới vừa héo úa. Các Chơn hồn còn được Nhứt Nương giúp cho định tỉnh Chơn thần và Chơn linh

Câu 1: "Vườn Ngạn Uyển sanh hoa đã héo."
Ngạn Uyển: Ngạn là bờ cao, Uyển là cái vườn của nhà vua. Ngạn Uyển là cái vườn hoa của Ðức Phật Mẫu nơi cõi TL. Trong vườn Ngạn Uyển có trồng đủ 12 sắc hoa khác nhau, tượng trưng 12 con Giáp (Thập nhị Ðịa Chi). Tuổi của con người nằm trong 12 con Giáp nầy. Mỗi sanh mạng của con người nơi thế gian đều được tượng hình bằng một cái hoa nở trong vườn. Mỗi khi hoa ấy héo tàn thì người ấy lìa trần trở về cõi TL. Khi người ấy tái kiếp xuống trần thì hoa ấy lại nở ra. Khi người ấy làm điều đạo đức thì sắc hoa tươi thắm, nếu làm điều gian ác thì sắc hoa ủ dột xấu xí.

Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo Con đường TLHS:
"Trước mắt chúng ta hiện tượng hào quang chiếu diệu một vườn hoa, đẹp đẽ đủ màu. Vườn hoa ở cảnh TL ấy không phải như vườn hoa ở thế gian nầy đâu! Bông hoa thiêng liêng ấy sẽ sống một triệu lần do nơi huyền năng biến hóa của nó, và nó sẽ hiện tượng biến hóa trước mặt ta vô cùng vô tận vậy. Bởi vì nó thay đổi màu sắc rực rỡ vô biên, cho nên mỗi phen kiếp sanh tại thế nầy, đường tấn hóa trên con đường trí thức tinh thần, mỗi khi nhơn loại tiến triển lên thì vườn Ngạn Uyển nó sẽ đổi hình đổi tướng một cách đẹp đẽ vô ngần."
C.1: "Một cái hoa được sanh ra ở trong vườn Ngạn Uyển mà héo tàn thì một sanh mạng con người nơi cõi trần đã chết."

Câu 2: "Khối hình hài đã chịu rã tan."
Khối hình hài: Thể xác phàm bằng xương bằng thịt.
C.2: Thể xác phàm chết thì sình thúi và rã tan thành đất.

Câu 3-4: "Bảy dây oan nghiệt hết ràng,"
"Bợn trần rửa sạch muôn ngàn đau thương."
Bảy Dây oan nghiệt: Khi con người sống nơi cõi trần, Chơn thần liên lạc với Thể xác qua 7 dòng điện từ [còn gọi là 7 sợi dây từ khí] mà mắt phàm không thấy được.

Nhờ 7 dòng điện từ nầy mà Chơn thần ra lịnh cho Thể xác phải làm đúng theo lời dạy bảo của Chơn linh, nhưng cũng qua 7 dòng điện từ nầy mà Xác phàm đòi hỏi Chơn thần phải làm cho nó thỏa mãn. Nếu Chơn linh yếu đuối không ngăn cản nổi thì Chơn thần làm theo sự đòi hỏi của Thể xác, nên mới gây ra nhiều mối oan nghiệt trong kiếp sống. Do đó mới gọi 7 dòng điện từ nầy là 7 dây oan nghiệt.

Khi ta nằm chiêm bao, Chơn thần xuất khỏi Thể xác, nhưng vẫn nối liền Thể xác bằng 7 dòng điện từ. Khi có tiếng động mạnh, Thể xác nghe được, liền dùng 7 dòng điện từ nầy kéo Chơn thần trở về lập tức, và liền đó ta giựt mình thức dậy.

Bảy dây oan nghiệt ở vào 7 nơi trong cơ thể:
Trên đầu (mỏ ác).
Ngay trán.
Ngay cổ.
Ngay tim.
Ngay hông trái,
Ngay dạ dưới.
Dưới xương khu.

Khi Thể xác chết, 7 dây oan nghiệt vẫn còn kéo níu Chơn thần, ràng buộc Chơn thần không cho xuất ra. Do đó, Ðức Chí Tôn ban cho Phép Ðoạn Căn để Chức sắc hành pháp cắt đứt 7 dây oan nghiệt, Chơn thần mới xuất ra rời bỏ thể xác, bay lên cõi TL.
Bợn trần: Các thứ dơ bẩn nơi cõi trần làm ô trược bổn tánh tốt đẹp và Chơn thần của con người.
Câu kinh 4 nói về Phép Xác, Chức sắc hành pháp dùng Cam Lồ Thủy tẩy rửa Chơn thần của người chết cho thanh khiết , trước khi hành pháp Ðoạn Căn cắt 7 dây oan nghiệt.
C.3-4: "7 sợi dây oan nghiệt đã được cắt đứt rồi, không còn ràng buộc Chơn thần nữa, đồng thời cũng đã rửa sạch hết các nhơ bợn của cõi trần bám vào Chơn thần làm cho Chơn thần dứt hết các nỗi đau thương."

Câu 5: "Kìa Thiên cảnh con đường vòi vọi."
Thiên cảnh: Cõi Trời, cõi TLHS. Vòi vọi: Ở cao quá tầm nhìn của mắt như là không thấy đâu là tận cùng.
C.5: "Kìa là con đường cao vòi vọi đi lên cõi TLHS."

Câu 6: "Ánh Hồng Quân đương chói Ngọc Lầu."
Hồng Quân: Hồng là to lớn, Quân là cái bàn xoay của người thợ nặn đồ gốm. Hồng Quân là cái bàn xoay to lớn dùng để nặn ra các thứ đồ vật, ý so sánh để nói rằng: Ðấng Tạo Hóa là Ông Thợ Trời, chuyển vận 2 khí Âm Dương làm như cái bàn xoay to lớn để tạo hóa ra vạn vật. Do đó, Hồng Quân là chỉ Ðức Chí Tôn. Ngọc Lầu: Tòa lầu đài bằng ngọc, ý nói Bạch Ngọc Kinh, nơi thường ngự của Ðức Chí Tôn.
C.6: "Ánh hào quang của Ðức Chí Tôn đương chiếu sáng rực rỡ Bạch Ngọc Kinh."

Câu 7: "Cung Thiềm gắng bước cho mau."
Cung Thiềm: Thiềm là con thiềm thừ, tục gọi là con cóc. Tương truyền trên Cung Trăng có một con thiềm thừ to lớn đẹp đẽ, đã sống được 8000 tuổi, dưới họng có chữ son. Do đó, Cung Thiềm là chỉ Cung Trăng hay Mặt trăng. Nơi đây là Bạch Vân Ðộng của chư Thánh, mà vị đứng đầu là Thanh Sơn Ðạo Sĩ, tức là Trạng Trình Nguyễn bỉnh Khiêm.
C.7: "Kìa là Cung Trăng, Chơn thần cố gắng bước đi cho mau."

Câu 8: "Thoát ba Thần phẩm đứng đầu Tam Thiên."
Ba Thần phẩm: 3 bực Thần: - Ðịa Thần, - Nhơn Thần, - Thiên Thần. Tam Thiên: Tam là thứ 3, Thiên là từng Trời. Tam Thiên là từng Trời thứ 3, đó là từng Thanh Thiên. Theo Vũ Trụ Quan của Ðạo Cao Ðài: Từng Trời thứ nhứt có Vườn Ngạn Uyển, Từng Trời thứ nhì có Vườn Ðào Tiên, Từng Trời thứ ba là Thanh Thiên, Từng Trời thứ tư là Huỳnh Thiên, vv.
C.8: "Ði lên qua được 3 Thần phẩm thì Chơn hồn đứng đầu ở từng Trời thứ ba" (để chuẩn bị đi lên từng Trời thứ tư).

Câu 9-10: "Khá tỉnh thức tiền duyên nhớ lại,"
"Ðoạn cho rồi oan trái buổi sanh."
Khá: Nên, phải nên. Tỉnh thức: Thức tỉnh, tỉnh ra mà biết rõ, không còn mê lầm nữa. Tiền duyên: Duyên trước, tức là mối dây ràng buộc được định sẵn từ kiếp trước.
Ðoạn: Cắt đứt. Oan trái: Oan là thù giận, trái là món nợ. Oan trái là món nợ về thù giận, tức là món nợ oan nghiệt.
Buổi sanh: Lúc còn sống nơi cõi trần.
C.9-10: "Nên thức tỉnh để nhớ lại là mình đã có duyên từ kiếp trước. Cắt đứt cho rồi các món nợ oan nghiệt mà mình đã gây ra lúc còn sống nơi cõi trần."

Câu 11-12: "Ðem mình nương bóng Chí Linh,"
"Ðịnh tâm chí Thánh mới gìn ngôi xưa."
Nương: Dựa vào, nhờ cậy vào. Bóng: Ánh sáng.
Ðịnh tâm: Gìn giữ cái Tâm cho được yên ổn, không vọng động. Phép tu Thiền: Giới, Ðịnh, Huệ, là để định cái Tâm cho đến khi đạt được trí huệ. Chí Thánh: Rất thiêng liêng mầu nhiệm. Thánh là thiêng liêng mầu nhiệm. Ngôi xưa: Ngôi vị cũ nơi cõi thiêng liêng.
C.11-12: "Ðem mình nương theo ánh sáng của Ðức Chí Tôn mà bước tới. Ðịnh cái Tâm cho được thiêng liêng mầu nhiệm thì mới gìn giữ được ngôi vị cũ nơi cõi thiêng liêng."

Câu 13:   "Hồn định tỉnh đã vừa định tỉnh."
Ðịnh tỉnh: Ðịnh là sắp đặt yên ổn, tỉnh là không mê, hiểu rõ mọi việc. Ðịnh tỉnh là làm cho tinh thần được yên ổn mà nhận biết rõ mọi việc.
C.13: "Phải giữ cho linh hồn được yên ổn và thức tỉnh."

Câu 14:   "Phách anh linh ắt phải anh linh."
Phách: Chơn thần. Anh linh: Anh là đẹp nhứt, linh là thiêng liêng. Anh linh là cao quí thiêng liêng.
C.14: "Chơn thần vốn cao quí thiêng liêng thì phải giữ cho luôn luôn được cao quí thiêng liêng."

Câu 15-16: "Quản bao Thập ác Lục hình,"
"Giải thi thoát khổ diệt hình đoạt căn."
Quản bao: Chẳng ngại, có sá chi, coi không đáng kể.
Thập ác: Mười điều ác do Thân, Khẩu, Ý của con người gây ra. Thân thì tạo ra 3 điều ác: - Sát sanh, - Du đạo, - Tà dâm. Khẩu thì tạo ra 4 điều ác: - Nói dối, - Nói ác, - Nói chia rẽ, - Nói phù phiếm. Ý thì tạo ra 3 điều ác: - Tham lam, - Sân giận, - Si mê. Khi còn sống nơi cõi trần thì Thân, Khẩu, Ý còn gây ra được 10 điều ác. Nay Thể xác đã chết rồi thì không thể gây ra Thập ác, nên chẳng còn e ngại nữa.

Lục hình: Sáu hình thức phô bày ra nơi cõi trần, Phật giáo goị là Lục cảnh hay Lục trần, gồm: Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Trong thể xác con người có Lục căn: Nhãn, Nhĩ, Tỹ, Thiệt, Thân, Ý, tức là: Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Da thịt,

Ý nghĩ. Lục cảnh phô bày trước Lục căn, hấp dẫn Lục căn, làm cho Lục căn ham muốn, sanh ra Lục dục: Sắc dục, Thinh dục, Hương dục, Vị dục, Xúc dục, Ý dục. Chính Lục dục nầy xúi giục và xô đẩy con người vào vòng vật chất, xa đường đạo đức, tạo ra cho con người biết bao mối oan nghiệt nơi cõi trần .

Khi thân thể con người chết đi thì Lục căn tiêu mất, cho nên dù Lục cảnh (Lục trần hay Lục hình) có cám dỗ thế mấy đi nữa thì cũng chẳng làm gì được.
Giải thi: Giải là cởi bỏ, Thi là thi hài thể xác. Giải thi là cởi bỏ thể xác, tức là thể xác chết vì Chơn thần và Linh hồn đã lìa bỏ thể xác. Thoát khổ: Thoát khỏi cảnh khổ não.
Diệt hình: Diệt là làm cho mất đi, tiêu diệt; Hình là hình thể sắc tướng. Diệt hình là là tiêu diệt hình thể sắc tướng, mà khi sắc tướng không còn nữa thì chỉ còn cái Vô vi, Vô hình.
Ðoạt căn: Ðoạt được cái nguồn gốc của mình, tức là đắc đạo, trở về ngôi vị cũ nơi cõi thiêng liêng.
C.15-16: "Quản bao Thập ác Lục hình, Giải thi thoát khổ diệt hình đoạt căn. Nghĩa là: Có sá chi Mười điều ác của Thân Khẩu Ý, Sáu cảnh hấp dẫn phô bày nơi cõi trần, vì nay đã cởi bỏ thể xác rồi, hình hài đã tiêu mất rồi, đã thoát khỏi các cảnh khổ não nơi cõi trần và đoạt được ngôi vị cũ nơi cõi thiêng liêng."

KHẢO DỊ:
* Kinh TÐ-TÐ năm 1936, Kinh Lễ năm 1952: đoạt căn.
* Kinh TÐ-TÐ năm 1968, 1974, 1975: đoạn căn.
Ðoạn căn: là phép cắt đứt 7 Dây oan nghiệt để cho Chơn thần thoát khỏi thể xác, trở về cõi thiêng liêng.
1 ]  2 ]  3 ]  4 ]  5 ]  6 ]  7 ]  8 ]  9 ]  10 ]  11 ]  12 ]  13 ]  14 ]  15 ]  16 ]  17 ]  18 ]  19 ]  20 ] [ 21 ]  22 ]  23 ]  24 ]  25 ]  26 ]  27 ]  28 ]  29 ]  30 ]  31 ]  32 ]  33 ]  34 ]  35 ]  36 ]  37 ]  38 ]  39 ]  40 ]  41 ]  42 ]  43 ]  44 ]  45 ]  46 ]  47 ]  48 ]  49 ]  50 ]  51 ]  52 ]  53 ]  54 ]  55 ]  56 ]  57 ]  58 ]  59 ]  60 ]  61 ]  62 ]  63 ]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét