Giải Nghĩa Kinh Thiên Đạo Thế Đạo - 14 / 63 (HT.Nguyễn Văn Hồng)


29. "Thập Thiên can bao hàm vạn tượng,
30. Tùng Ðịa chi hóa trưởng Càn Khôn.
31. Trùng huờn phục vị Thiên môn,
32. Nguơn linh hóa chủng quỉ hồn nhứt thăng."
  

GIẢI NGHĨA
Câu 29-30: "Thập Thiên can bao hàm vạn tượng."
"Tùng Ðịa chi hóa trưởng Càn Khôn."
Thập Thiên can: Mười Can Trời gồm: Giáp, Ất, Bính, Ðinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí.
Thập nhị Ðịa chi: Mười hai Chi Ðất gồm: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
CAN và CHI, theo chữ gốc là Cán và Chi. Cán là thân cây, Chi là cành cây. Thân cây và cành cây liên kết nhau mới thành một cái cây. Tương truyền, vào thời vua Hiên Viên Huỳnh Ðế, có ông Ðại Nhiêu sáng tạo ra Thập Thiên Can và Thập nhị Ðịa Chi dùng để tính thời gian và làm lịch.
Bao hàm: Gồm chứa, chứa đựng bên trong. Tượng: Hình dáng bên ngoài. Vạn tượng: Muôn hình trạng.
Tùng: Theo. Hóa: Biến đổi. Trưởng: Lớn lên. Càn Khôn: Trời Ðất, chỉ CKVT.
Hai Câu 29 & 30: Thập Thiên Can bao gồm ngàn hình muôn trạng. Thập Thiên Can tùng theo Thập nhị Ðịa Chi làm biến đổi và lớn rộng thêm Càn Khôn Vũ Trụ.

Khi sáng tạo ra CKVT, người và vạn vật, Ðức Chí Tôn dùng Thập nhị Ðịa Chi đặt tên cho các khoảng thời gian sáng tạo: "Thiên khai ư Tý, Ðịa tịch ư Sửu, Nhơn sanh ư Dần." Nghĩa là: Trời khai ở Hội Tý, Ðất mở ra ở Hội Sửu, Người sanh ra ở Hội Dần. (Hội là một khoảng thời gian rất dài, lớn hơn một Chuyển. Một Hội có nhiều Chuyển, một Chuyển có 3 Nguơn: Thượng Nguơn, Trung Nguơn, Hạ Nguơn).

Câu 31: "Trùng huờn phục vị Thiên môn."
Trùng: Lập lại nhiều lần giống nhau. Huờn: Hoàn trả lại. Phục vị: Phục là trở lại, vị là ngôi vị. Phục vị là trở lại ngôi vị cũ. Thiên môn: Cửa Trời, cõi Trời, tức là cõi TLHS.
C.31: "Nhiều lần cho trở lại ngôi vị cũ nơi cõi TLHS."

Câu 32: "Nguơn linh hoá chủng quỉ hồn nhứt thăng."
Nguơn linh: Nguyên linh. Nguyên là khởi đầu, cái chỗ bắt đầu. Linh là linh hồn. Nguơn linh là những linh hồn được sanh ra từ lúc Khai Thiên, đầu thai xuống trần, được gọi là Nguyên nhân. Hóa: Biến đổi. Chủng: Loài, loại.

Quỉ hồn: Linh hồn của Quỉ, tức là những Linh hồn thuộc về Quỉ vị. Khi Quỉ hồn đầu kiếp nơi cõi trần để làm người thì được gọi là Quỉ nhân.
Nơi cõi trần có 3 hạng người phân chia theo phẩm chất của Linh hồn: Nguyên nhân, Hóa nhân, Quỉ nhân.
Nguyên nhân là những chơn linh được sanh ra từ lúc Khai Thiên, nay đầu kiếp xuống trần.
Hóa nhân là những người do sự tiến hóa của loài Thú cầm mà sanh ra.
Quỉ nhân là những quỉ hồn đầu thai lên. Nguyên nhân và Hóa nhân, nếu gây ra nhiều tội lỗi nặng nề, phạm Thiên điều thì linh hồn bị đọa vào Quỉ vị, biến thành Quỉ hồn.
Nhứt: Bao gồm tất cả. Thăng: Siêu thăng.
C.32: "Các Nguyên hồn đã được sanh ra từ lúc Khai Thiên, nay biến thành các loại Quỉ hồn, đều được độ rỗi để tất cả đều được siêu thăng."

Dù là Nguyên nhân, Hóa nhân hay Quỉ nhân, tất cả cũng đều là con cái của Chí Tôn và Phật Mẫu. ÐÐTKPÐ là Ðại Ân Xá Kỳ Ba, tận độ chúng sanh, nên Phật Mẫu từ bi cứu giúp toàn cả con cái của Ngài để tất cả đều được siêu thăng.

TNHT. II. 85: "Bần đạo chẳng kể là Nguyên nhân, Hóa nhân hay Quỉ nhân, ví biết lập công thì thành đạo."

33. "Vô siêu đọa quả căn hữu pháp,
34. Vô khổ hình nhơn kiếp lưu oan.
35. Vô Ðịa ngục, vô quỉ quan,
36. Chí Tôn Ðại Xá nhứt trường qui nguyên."
  

GIẢI NGHĨA
Câu 33: "Vô siêu đọa quả căn hữu pháp."
Vô: Không. Siêu đọa: Siêu thăng và đày đọa.Vô siêu đọa: Vô siêu vô đọa, không siêu thăng mà cũng không đày đọa. Quả căn: Căn là gốc rễ, Quả là cái kết quả. Quả căn hay Căn quả là cái kết quả tốt hay xấu của kiếp sống hiện tại là do gốc rễ là những việc làm thiện hay ác trong kiếp trước. Nếu trong kiếp sống hiện tại gặp nhiều hoạn nạn là bởi căn xưa không lành. Hữu: Có. Pháp: Pháp luật.

C.33: "Không siêu thăng, không đọa đày, căn quả của mỗi người đều có luật pháp định rõ."
(Vô siêu đọa cũng có thể được giải thích là: Không đày đọa quá mức. Siêu là quá mức. C.33: Không đày đọa quá mức, căn quả của mỗi người đều có luật pháp định rõ. Bởi vì trong Câu kinh 32, tất cả đều được siêu thăng, dầu Quỉ hồn cũng vậy.(

Câu 34: "Vô khổ hình nhơn kiếp lưu oan."
Khổ hình: Hình phạt khổ sở. Vô khổ hình: Không có các hình phạt khổ sở. Nhơn kiếp: Kiếp sống của con người. Lưu: Ðể lại. Oan: Thù giận. Lưu oan: Lưu lại các oan nghiệt. Nhơn kiếp lưu oan: Những mối oan nghiệt của các kiếp sống trước còn lưu lại.
C.34: "Không có những hình phạt khổ sở do các oan nghiệt của các kiếp sống trước còn lưu lại." (vì các oan nghiệt ấy đã được Ðức Phật Mẫu tiêu diệt hết do lịnh Ðại Ân Xá của Ðức Chí Tôn).

Câu 35: "Vô Ðịa ngục, Vô quỉ quan."
Ðịa ngục: Cõi tối tăm để giam giữ và trừng phạt các linh hồn tội lỗi. Có tất cả 10 cửa Ðịa ngục do Thập Ðiện Diêm Vương cai quản, dưới quyền của Ðức Ðịa Tạng Vương Bồ Tát.
Quỉ quan: Cửa quỉ, nơi giam giữ loài quỉ. Quan là cái cửa.
C.35: "Không còn Ðịa ngục, không còn cửa quỉ."
Ý nói: Ðịa ngục và cửa quỉ đã bị đóng cửa hoàn toàn, không còn được dùng làm nơi giam giữ, đày đọa và trừng phạt các tội hồn.

Câu 36: "Chí Tôn đại xá nhứt trường qui nguyên."
Ðại xá: Xá là tha tội. Ðại xá là tha tội cho tất cả những người phạm tội, không giới hạn. Thường nói là Ðại Ân Xá. Khi Ðức Chí Tôn khai ÐÐTKPÐ thì Ðức Chí Tôn cũng mở ra một cuộc Ðại Ân Xá cho các đẳng chơn hồn trong khắp CKVT. (Xem chi tiết ngay ở phần sau). Trường: Nơi tụ họp nhiều người.

Nhứt trường: Một trường. Qui nguyên: Trở về gốc. Cái gốc ấy là nơi xuất phát ra mình, đó là Thái Cực, tức là Ðấng Chí Tôn Thượng Ðế.
C.36: "Ðức Chí Tôn Ðại khai Ân Xá, tha thứ tội tình cho chúng sanh để đem con cái của Ngài trở về hiệp vào một chỗ cùng Ngài."

Ðại Ân Xá Kỳ Ba
Kể từ ngày khai Ðạo Cao Ðài, Ðức Chí Tôn mở ra một thời kỳ Ðại Ân Xá cho toàn thể chúng sanh và cho các đẳng linh hồn.

Muốn hưởng được sự ân xá nầy, mỗi người phải biết thành tâm hối lỗi, ăn năn sám hối tội tình, cải tà qui chánh, nguyện thề từ bỏ các lỗi lầm để chuyên tâm lo việc tu hành, lập công bồi đức.

"Mỗi lần Khai Ðạo là Ðức Chí Tôn Ðại Ân Xá, tức là ban cho những người biết hồi đầu hướng thiện và lo việc tu hành, một ân huệ lớn lao, nghĩa là những tội lỗi của họ đã chồng chất từ mấy kiếp trước được Ơn trên bôi xóa và cho họ làm một Tân dân (người dân mới) trong cửa Ðạo với một Tư Pháp Lý Lịch còn trinh bạch. Nhờ vậy, người nhập môn hành đạo mới rảnh nợ tiền khiên, chỉ lo trau giồi Ðạo hạnh và lập công bồi đức, là đắc đạo trong một kiếp tu.

Hạ nguơn nầy, Ðức Chí Tôn lập Ðạo Kỳ Ba, nên mới có Ðại Ân Xá Kỳ Ba. Phép Giải Oan, Phép Cắt Dây Oan Nghiệt, Phép Ðộ Thăng và các phép Bí tích khác của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ được đem áp dụng trong sự thi hành luật Ðại Ân Xá đó vậy." (Trích Giáo lý Bài 18, Khóa Huấn Luyện Giáo Hữu, tại TTTN Toa Thanh Tay Ninh ).

Ngày chánh thức Khai Ðạo là 15-10 Âm lịch, tức là Rằm Hạ nguơn năm Bính Dần (1926) là ngày khởi đầu thời kỳ Ðại Ân Xá Kỳ Ba, Ðức Chí Tôn ban cho nhơn loại những ơn huệ đặc biệt sau đây:

1) Tha thứ tội lỗi ở các kiếp trước của những người biết hồi đầu hướng thiện, nhập môn cầu Ðạo, lập Minh Thệ cùng các Ðấng Thiêng liêng, nhứt tâm lo việc tu hành.

May đặng gặp hồng ân chan rưới,
Giải trái oan sạch tội tiền khiên. (KGO Kinh Giai Oan )

Chí Tôn xá tội giải oan,
Thánh Thần Tiên Phật cứu nàn độ căn.
Ơn Tạo Hóa tha tiền khiên trước,
Ðưa linh phan tiếp rước nguyên nhân. (KCBCTBCHÐQL Kinh Cau Ba Con Than Bang Co Huu Ða Qui Lieu )

2) Ðức Chí Tôn đặc ân cho các tín đồ Cao Ðài, khi chết, linh hồn được Cửu vị Tiên Nương hướng dẫn đi qua các từng Trời của Cửu Trùng Thiên, mỗi nơi đều được quan sát các cảnh Trời đẹp đẽ mà dưới thế gian nầy không bao giờ có, đến bái kiến các Ðấng Thần, Thánh, Tiên, Phật, đến Minh Cảnh Ðài để xem xét trở lại các hành vi thiện ác của mình trong suốt kiếp sống nơi cõi trần, đến Diêu Trì Cung bái kiến Ðức Phật Mẫu, đến Ngọc Hư Cung bái kiến Ðức Chí Tôn để cây Cân Công Bình thiêng liêng cân tội phước. Phước nhiều thì được phong thưởng bằng những phẩm vị Thần Thánh Tiên Phật tương xứng. Nếu tội nhiều thì bị đưa về cõi Âm Quang, vô Tịnh Tâm Xá mà định tâm tịnh trí, ăn năn sám hối tội tình, cầu nguyện Ðức Chí Tôn độ rỗi. Tại cõi Âm Quang có Thất Nương DTC giáo hóa các Nữ tội hồn, và Ðịa Tạng Vương Bồ Tát giáo hóa các Nam tội hồn.

3) Ðức Chí Tôn cho đóng cửa Ðịa Ngục. Các tội hồn không còn bị giam giữ và bị hành hình trong Ðịa ngục nữa, mà được đưa đến cõi Âm Quang để học Ðạo, cầu khẩn Ðức Chí Tôn độ rỗi, chờ ngày trở lại cõi trần đặng tái kiếp mà trả cho xong căn quả.

4) Ðức Chí Tôn cho mở cửa Cực Lạc Thế Giới để đón rước người đắc đạo. Nếu người nào quyết chí tu hành, chỉ trong một kiếp tu cũng đủ đắc đạo. "Nên Thầy cho một quyền rộng rãi cho cả nhơn loại trong Càn Khôn Thế Giới, nếu biết ngộ kiếp một đời tu, đủ trở về cùng Thầy đặng." (TNHT. I. 76).

Ðóng Ðịa ngục, mở tầng Thiên,
Khai đường Cực Lạc, dẫn miền Tây phương. (KGO)

5) Những người bị tội Tận đọa Tam đồ bất năng thoát tục, hay bị Ngũ Lôi tru diệt, cũng nhờ Ðại Ân Xá nầy mà được Ðức Phật Mẫu cho huờn lại Chơn linh và Chơn thần đặng tái kiếp lập công chuộc tội.

Thời kỳ Ðại Ân Xá không phải kéo dài mãi mãi đến thất ức niên (700 000 năm) mà chỉ được giới hạn trong giai đoạn đầu của thời kỳ Khai Ðạo. Ðức Chí Tôn và các Ðấng Thiêng liêng không tiết lộ cho biết Ðại Ân Xá kéo dài trong bao nhiêu năm, nhưng theo sự khảo cứu tổng hợp các tài liệu, thì thời kỳ Ðại Ân Xá của Ðức Chí Tôn bắt đầu kể từ ngày Khai Ðạo 15 tháng 10 năm Bính Dần (1926), cho đến khi Ðức Phật Di-Lạc khai Ðại Hội Long Hoa, là chấm dứt, vì đã bước qua một chu trình tiến hóa mới của nhơn loại.

Chúng ta hôm nay gặp Ðạo Cao Ðài là một duyên may ngàn năm một thuở, nếu không mau tiến bước trên đường tu hành, cứ để ngày tháng lần lừa trôi qua, thì có mong chi đắc quả, trở về ngôi vị cũ.

37. "Chiếu nhũ lịnh Từ Huyên thọ sắc,
38. Ðộ anh nhi Nam, Bắc, Ðông, Tây.
39. Kỳ khai tạo nhứt linh đài,
40. Diệt hình tà pháp cường khai đại đồng."
  
西

GIẢI NGHĨA
Câu 37: "Chiếu nhũ lịnh Từ Huyên thọ sắc."
Chiếu: Căn cứ vào, noi theo. Nhũ: Sữa, cái vú mẹ, chỉ bà mẹ. Nhũ lịnh: Lịnh của Mẹ. Ở đây ý nói: Lịnh của Ðức Phật Mẫu.
Từ: Lòng thương yêu của người trên đối vói kẻ dưới.
Huyên: Cỏ huyên, chỉ người mẹ.

Huyên là loại cỏ sống lâu năm, người xưa cho rằng ăn cỏ huyên thì khỏi buồn phiền, nên cỏ huyên còn có tên là Vong Ưu thảo. Trong Kinh Thi có câu: "An đắc huyên thảo, ngôn thụ chi bối." (Làm sao có được cỏ huyên trồng ở chái nhà phía Bắc). Ðời xưa, chái nhà phía Bắc là chỗ ở của mẹ. Trồng cỏ huyên nơi chỗ ở của mẹ là có ý muốn cho mẹ khỏi buồn phiền. Do đó, trong văn học cổ, người ta dùng chữ Huyên đường (Nhà huyên) là để chỉ người mẹ.
Từ Huyên: Người mẹ hiền thương yêu con cái, chỉ Ðức Phật Mẫu. Thọ: còn đọc Thụ, nghĩa là nhận lãnh. Sắc: Tờ giấy viết lịnh của vua, ý nói tờ giấy viết lịnh của Ðức Chí Tôn.
C.37: "Chiếu theo lịnh của Ðức Phật Mẫu, mà Ðức Phật Mẫu đã nhận lãnh Sắc lịnh của Ðức Chí Tôn."

Câu 38: "Ðộ anh nhi Nam, Bắc, Ðông, Tây."
Ðộ: Cứu giúp. Anh nhi: Anh là đứa trẻ mới lọt lòng mẹ, nhi là con trẻ. Anh nhi là chỉ chung con cái của Ðức Phật Mẫu, tức là toàn thể nhơn loại, vì Ðức Phật Mẫu xem nhơn loại là con cái nhỏ dại của Người. Nam, Bắc, Ðông, Tây: 4 hướng, ý nói khắp nơi trên cõi trần.
C.38: "Ðức Phật Mẫu cứu giúp toàn thể con cái khắp nơi trên cõi trần."

Câu 39: "Kỳ khai tạo nhứt linh đài."
Kỳ: Thời kỳ. Khai: Mở ra. Kỳ khai: Mở ra một thời kỳ, tức là mở ra ÐÐTKPÐ. Tạo: Làm ra. Nhứt: Một. Linh: Thiêng liêng. Linh đài: Cái đài thiêng liêng, chỉ cái Tâm của con người. Trang Tử có nói: "Bất khả nội ư linh đài", nghĩa là: Không thể ở trong cái Tâm của người ta được. Ý nói không thể biết rõ lòng dạ của người ta được.

Thơ của Bùi Ðộ nhà Ðường có câu: "Nhứt điểm linh đài đan thanh mạc trạng.", nghĩa là: Một điểm linh đài, đỏ xanh không vẽ nên hình trạng được.

Như vậy thì cái Tâm của con người không có hình sắc, mầu nhiệm thiêng liêng. Chúng ta không thể nhìn thấy cái Tâm được, nhưng có thể nhận biết nó, vì cái Tâm có bản chất lành, nên gọi là Lương Tâm, thường khiến con người làm điều hay sự phải, giục con người mến đạo đức chuộng tinh thần, biết thuận tùng Thiên lý. Người làm điều không phải thì bị Lương Tâm cắn rứt. Kẻ làm ác là vì cái Tâm bị vật dục che lấp nên không còn điều khiển hành vi theo đường chơn thiện. Tâm sáng thì gần Tiên Phật, Tâm u tối thì gần Quỉ ma.

Linh đài cũng là cái Tâm của Vũ trụ. Ðó chính là Thiên nhãn (Nhãn thị chủ Tâm), tượng trưng cho khối đức tin của nhơn loại. Ðức tin đó là nhận 2 Ðấng Chí Tôn và Phật Mẫu là Ðại Từ Phụ và Ðại Từ Mẫu của nhơn loại. Có Ðức tin vững chắc như thế thì nhơn loại mới nhìn nhau là anh em một nhà, mới thương yêu giúp đỡ nhau. Ðó là yếu tố then chốt tiến đến Ðại Ðồng nhơn loại.
C.39: "Mở ra ÐÐTKPÐ là để tạo một khối đức tin lớn cho toàn nhơn loại."

Câu 40: "Diệt hình tà pháp, cường khai Ðại Ðồng."
Diệt: Làm cho mất đi. Hình: Cái hiện ra trước mắt, hình thức. Tà pháp: Tất cả những việc không ngay thẳng, không chơn thật, có mục đích không tốt đẹp.
Cường khai: Mở ra một cách mạnh mẽ.
Ðại Ðồng: Cùng chung một qui mô lớn lao. Xã hội Ðại Ðồng là một xã hội trong đó, khắp mọi nơi đều hòa bình vui vẻ, mọi người đều bình đẳng, không còn phân biệt giai cấp, chủng tộc, xem nhau như anh em một nhà. Ðó là một xã hội thái bình an lạc lý tưởng, là đời Thượng nguơn Thánh đức.
C.40: "Tiêu diệt tất cả các hình thức của tà quái để mở ra một cách mạnh mẽ xã hội Ðại Ðồng cho toàn nhơn loại."

41. "Hiệp vạn chủng nhứt môn đồng mạch,
42. Qui Thiên lương quyết sách vận trù.
43. Xuân Thu, Phất Chủ, Bát Vu,
44. Hiệp qui Tam giáo hữu cầu chí chơn."
  

GIẢI NGHĨA
Câu 41: "Hiệp vạn chủng nhứt môn đồng mạch."
Hiệp: Hợp lại, gom lại. Vạn chủng: Muôn loài, chỉ toàn thể nhơn loại gồm nhiều chủng tộc. Nhứt môn: Một cửa, ý nói một nhà. Ðồng mạch: Ðồng là cùng, mạch là đường nước chảy. Ðồng mạch là cùng một đường nước chảy, ý nói cùng chung một tín ngưỡng.
C.41: "Hợp các chủng tộc của nhơn loại thành một nhà, trong một tín ngưỡng chung, cùng tôn thờ hai Ðấng Cha Mẹ chung thiêng liêng là Ðức Chí Tôn và Ðức Phật Mẫu."

Câu 42: "Qui Thiên lương quyết sách vận trù."
Qui: Trở về, đem trở về. Thiên: Trời. Lương: Tốt đẹp. Thiên lương là cái tốt đẹp do Trời ban cho mỗi người. Ðó chính là cái Tâm chơn chánh và lành, nên gọi là Lương Tâm. Lương Tâm chỉ là sự thể hiện của Chơn linh, mà Chơn linh là điểm Linh quang của Ðức Chí Tôn ban cho mỗi người.
Quyết: Liệu định. Sách: Kế hoạch. Vận trù: Vận động và trù liệu toan tính công việc.
C.42: "Ðức Phật Mẫu liệu định kế hoạch, vận động và toan tính đem cái Thiên lương (Tâm) trở lại làm chủ con người."

Bấy lâu nay, cái Tâm của con người bị lục dục thất tình che lấp, không làm chủ con người, nên lần lần con người đi vào đường vật chất, gây ra lắm tội tình. Nếu kềm chế được thất tình và lục dục thì Thiên lương sẽ được sáng tỏ trở lại, làm chủ con người, khiến con người đi vào đường đạo đức.

Câu 43: "Xuân Thu, Phất Chủ, Bát Vu."
Xuân Thu: là quyển Kinh Xuân Thu do Ðức Khổng Tử viết ra để bày tỏ cái Ðạo của Ngài. Mới nhìn thì Xuân Thu là một quyển sách lịch sử của nước Lỗ, nhưng Ðức Khổng Tử đã vận dụng văn tự, và bút pháp để khen chê, phân biệt tà chánh rất minh bạch và đanh thép, nên người đời sau phải công nhận đó là những búa rìu trong Kinh Xuân Thu. "Khổng Tử tác Xuân Thu nhi loạn thần tặc tử cụ." nghĩa là: Ðức Khổng Tử làm Kinh Xuân Thu mà bọn loạn thần gian tặc sợ.

Như thế, Kinh Xuân Thu là sách để Tâm truyền đại nghĩa Danh và Phận về đường luân lý và chánh trị. Ðức Khổng Tử nói: "Tri Ngã giả kỳ duy Xuân Thu hồ, tội Ngã giả kỳ duy Xuân Thu hồ." Nghĩa là: Người biết Ta cũng chỉ ở Kinh Xuân Thu, người trách tội Ta cũng chỉ ở Kinh Xuân Thu.

Kinh Xuân Thu là biểu tượng của Khổng Tử, Ðạo Cao Ðài chọn Kinh Xuân Thu làm Cổ pháp tượng trưng Nho giáo.
Phất Chủ: Phất là quét, Chủ là con chủ, một giống thú thuộc loài nai, hình dáng như con hươu mà lớn hơn. Thường thì con chủ đi trước, đàn hươu đi theo sau, đuôi con chủ phẩy sạch bụi, nên ngày xưa thường dùng đuôi con chủ làm cây phất trần, tức là cây chổi quét bụi; vì thế cây Phất trần còn được gọi là Chủ vĩ (đuôi con chủ). Trong truyện Tam quốc, sau khi Quan Công bị chém đầu, hồn bay phưởng phất trên đỉnh núi Ngọc Tuyền đòi trả đầu lại, Phổ Tịnh Thiền Sư lấy "Ðuôi chủ" gõ vào cửa để gọi hồn Quan Công. Quan Công liền đáp xuống ra mắt Thiền Sư. Thiền Sư giải rõ về Nhơn Quả, Quan Công liền tỉnh ngộ và hiển Thánh.

Vậy, Phất chủ là cây chổi làm bằng đuôi con chủ, để các vị Tiên quét bụi. Ðây là cây chổi Tiên để quét sạch bụi trần bám vào che lấp cái Tâm, để cái Tâm trở nên trong sạch và sáng tỏ.
Theo Bí pháp Tiên gia, Phất chủ kết tụ điển khí của Thất bửu Diêu Trì Cung, dùng sửa trau Chơn thần cho tinh khiết. Nguồn gốc của cây Phất chủ là của Ðức Thái Thượng Ðạo Quân, một bảo vật của Tiên gia có phép thuật rất huyền diệu. Các vị Tiên thường cầm Phất chủ.
Do đó, Ðạo Cao Ðài chọn Phất chủ làm Cổ Pháp tượng trưng Tiên giáo.
Bát Vu: Bát là cái chén đựng đồ ăn, Vu là cái bầu đựng đồ ăn và nước. Bát Vu là cái bình đựng đồ ăn và nước của các vị Tăng Ni Phật giáo phái Khất sĩ, dùng đi khất thực.
Mỗi vị Sư, khi thọ giới cụ túc thì được vị Hòa Thượng nhơn danh Giáo Hội truyền cho một cái Bát, hoặc khi cái Bát bị hư bể thì cũng được Giáo Hội phát cho cái khác.

Bình Bát vu (Bát) và áo Cà sa (Y), gọi tắt là Y Bát, của Ðức Phật Thích Ca là 2 tín vật quí báu để truyền ngôi Tổ Sư Phật giáo. Khi Ðức Phật Thích Ca tịch, Ngài truyền Y Bát nầy lại cho Ma Ha Ca Diếp làm tín vật để kế thừa Ngài, giữ ngôi Nhứt Tổ Phật giáo Ấn Ðộ, điều hành toàn bộ Giáo hội Phật giáo. Y Bát nầy truyền dần xuống đến đời Tổ Sư 28 là Ðạt Ma Tổ Sư, thì Y bát theo Ðạt Ma Tổ Sư chuyển qua nước Trung Hoa để mở mang Phật giáo tại đây. Ðạt Ma Tổ Sư trở thành Sơ Tổ của Phật giáo Trung Hoa. Tại đây, Ðạt Ma Tổ Sư truyền Y Bát qua 4 đời Tổ nữa, thì đến Lục Tổ Huệ Năng. Sau đời Lục Tổ Huệ Năng thì không còn lệ truyền Y Bát nữa, vì theo lời dặn dò của Ðạt Ma Tổ Sư, sau 200 năm kể từ ngày Ngài nhận Y Bát làm Tổ thì không được truyền kế nữa. Lục Tổ Huệ Năng là vị Tổ Sư cuối cùng có Y Bát. Chắc chắn các Tổ Sư biết rằng, sau đời Lục Tổ Huệ Năng thì Phật giáo bắt đầu thất Chơn truyền, bước vào thời kỳ Mạt Pháp.
Ðạo Cao Ðài chọn Bình Bát vu làm Cổ Pháp tượng trưng Phật giáo.
Như vậy, Tam giáo: Nho, Thích, Lão, được tượng trưng bằng 3 Cổ Pháp:
Bình Bát vu, tượng trưng Phật giáo.
Cây Phất chủ, tượng trưng Tiên giáo.
Kinh Xuân Thu, tượng trưng Nho giáo.
Ghép chung 3 Cổ Pháp nầy lại để nói lên ý nghĩa là: Tam giáp qui nguyên, tức là đem 3 nền Tôn giáo nầy cùng trở về một gốc, gốc đó là nguồn cội của CKVT, là Thái Cực, là Thượng Ðế vậy.
Câu 44: "Hiệp qui Tam giáo hữu cầu chí chơn."

Hiệp: Hòa hợp. Qui: Trở về. Hiệp qui: Trở về và hòa hợp với nhau. Tam giáo: Ba nền tôn giáo lớn ở Á Ðông, gồm: Phật giáo, Tiên giáo, Nho giáo. Hữu: Có. Cầu: Tìm kiếm, mong mỏi. Chí: Rất. Chí chơn: Rất chơn thật.
C.44: Ðem Tam giáo trở về hòa hợp với nhau thành một khối để mong tạo thành một nền Ðại Ðạo rất chơn thật.

45. "Phục nguyên nhơn huờn tồn Phật tánh,
46. Giáo hóa hồn hữu hạnh hữu duyên.
47. Trụ căn quỉ khí Cửu tuyền,
48. Quảng khai Thiên thượng tạo quyền chí công."
  

GIẢI NGHĨA
Câu 45: "Phục nguyên nhơn huờn tồn Phật tánh."
Phục: Ðem trở về. Nguyên nhơn: Người mà linh hồn được sanh ra từ lúc khai Thiên. (Xem trở lại Câu 7 PG) Huờn: Hoàn, trả lại. Tồn: Còn.

Phật tánh: Tánh Phật, tức là cái tánh giác ngộ. Ðó là cái tánh tốt đẹp và lành mà Trời ban cho mỗi người. Phật tánh cò được gọi là: Giác tánh, Như Lai tánh.
Con người ai ai cũng đều có Phật tánh, cho nên nếu biết lo tu hành thì đều thành Phật. Dầu cho kẻ thiện hay người ác đều có Phật tánh như nhau, nhưng kẻ ác thì Phật tánh bị vật dục che lấp hoàn toàn, còn người thiện thì Phật tánh tỏ rạng.
Câu nói nổi tiếng của Lục Tổ Huệ Năng khi trả lời câu hỏi của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn: "Người đành có Nam Bắc, tánh Phật há vậy sao?"
Chỉ có Phật thì Phật tánh hoàn toàn sáng suốt.
Theo Niết Bàn Kinh, Phật tánh có 7 tính chất: Hằng có, Trong sạch, Thực, Lành, Ðương kiến, Chơn chánh, Khả chứng.
Vậy, Phật tánh là cái bổn tánh trong sạch thiện lương mà Trời ban cho mỗi người. Cho nên cũng gọi là Thiên tánh.
C.45: "Ðem các nguyên nhân trở về bằng cách hoàn trả và bảo tồn cái bổn tánh thiện lương chơn chánh mà Trời đã ban cho mỗi người."
Các Nguyên nhân đầu kiếp xuống trần thì bị nhiễm trược trần, bị vật dục che lấp Phật tánh, làm cho Phật tánh dường như mất đi. Nay, Ðức Phật Mẫu đến giúp họ giác ngộ, cởi bỏ bức màn vô minh, thì Phật tánh tỏ rạng, giống như là đã đem Phật tánh hoàn trả cho họ.

Câu 46: "Giáo hóa hồn hữu hạnh hữu duyên."
Giáo hóa: Dạy dỗ cho biến đổi từ xấu ra tốt, từ dốt thành ra biết chữ nghĩa. Hồn: Linh hồn, Chơn linh.
Hữu: Có. Hạnh: May mắn. Duyên: Mối dây ràng buộc được định sẵn từ trước.
Hữu hạnh: Có may mắn gặp được mối Ðạo. Hữu duyên: Có duyên với Phật, tức là có duyên với việc tu hành.
C.46: "Giáo hóa các linh hồn có may mắn (gặp Ðạo) và các linh hồn có duyên" (với việc tu hành).

Câu 47: "Trụ căn quỉ khí Cửu tuyền."
Trụ: Giữ yên một chỗ, thường nói: An trụ.
Căn: Cái gốc rễ. Khí: Cái phần vô hình.
Quỉ khí: Quỉ hồn, tức là những linh hồn thuộc Quỉ vị.

Cửu tuyền: Cửu là 9, Tuyền là suối. Cửu tuyền là Chín suối, chỉ cõi Âm phủ. Tương truyền, nơi Âm phủ có 9 dòng suối. Theo Thế Thuyết, sau khi Ân Trọng Kham chết, Hoàn Huyền hỏi Ân Trọng Văn: Cha ngươi là Trọng Kham là người thế nào? Trọng Văn đáp: Tuy không thể làm sáng tỏ một đời, cũng đủ soi rọi khắp Chín suối.
C.47: "Cái gốc của các Quỉ hồn là ở cõi Âm phủ, nên Ðức Phật Mẫu giữ yên các Quỉ hồn tại nơi đó."

Câu 48: "Quảng khai Thiên thượng tạo quyền chí công."
Quảng: Rộng rãi. Khai: Mở ra. Quảng khai: Mở rộng ra. Thiên thượng: Trên Trời, chỉ cõi Trời, tức cõi TLHS. Quảng khai Thiên thượng: Mở rộng cõi Trời để rước những người đắc đạo trở về. Tạo: Làm ra. Quyền: Quyền hành.

Chí công: Rất công bình. Cái Công bình nơi cõi thiêng liêng được tượng trưng bằng Cây Cân Công Bình của Ðức Chí Tôn. Cái công bình đó mới là tuyệt đối, vì không có chi có thể khuất lấp được, còn cái công bình nơi phàm trần chỉ là cái công bình tương đối, vì sự phán xét của con người có giới hạn, và luật pháp do con người đặt ra có tánh cách tương đối. Vì thế, người ta gọi Thượng Ðế là Ðấng Chí Công.
C.48: "Ðức Phật Mẫu mở rộng cõi Trời để thi hành cái quyền công bình thiêng liêng tuyệt đối của Trời." (Ai có công thì được thưởng, ai có tội thì bị đọa đày).

49. "Lịnh Mẫu Hậu khai tông định Ðạo,
50. Ân dưỡng sanh đảm bảo hồn hài.
51. Càn Khôn tạo hóa sánh tài,
52. Nhứt triêu nhứt tịch kỉnh bài mộ khang."
  

GIẢI NGHĨA
Câu 49: "Lịnh Mẫu Hậu khai tông định Ðạo."
Lịnh: Mệnh lệnh. Mẫu Hậu: Một danh hiệu của Ðức Phật Mẫu. Lịnh Mẫu Hậu: Mệnh lệnh của Ðức Phật Mẫu.
Khai: Mở ra. Tông: Cũng đọc là Tôn, tôn giáo. Khai tông: Mở ra một nền tôn giáo. Ðịnh: Sắp đặt. Ðạo: Tôn giáo. Ðịnh Ðạo: Sắp đặt một nền tôn giáo.
C.49: "Ðức Phật Mẫu ra lịnh mở ra một nền tôn giáo và sắp đặt các việc trong nền tôn giáo ấy."

Trong Ðạo Sử của Bà Nữ Ðầu Sư Hương Hiếu, Quyển I trang 28-29, có ghi lại sự tích Ðức Phật Mẫu giáng dạy 3 vị Phò loan Vọng Thiên Cầu Ðạo. Ba vị Phò loan là: Phạm công Tắc, Cao quỳnh Cư, và Cao Hoài Sang.
"Ngày 27-10-Ất Sửu (dl 12-12-1925), Bà Cửu Thiên Huyền Nữ giáng mách bảo rằng: Mùng 1 nầy, tam vị đạo hữu Vọng Thiên Cầu Ðạo.

Bà thăng rồi, ba ông hợp nhau bàn giải không hiểu Cầu Ðạo là gì mà Bà dạy, để cầu hỏi mấy Em.
Ngày sau, ba ông cầu Thất Nương hỏi: Thất Nương dạy giùm Cầu Ðạo là gì? Thất Nương nói: Không phải phận sự của Em, xin hỏi Ông A Ă Â.
Ngày sau nữa, có các Ðấng giáng về, ba ông cũng hỏi thì các Ðấng cũng nói: Không phải phận sự của tôi, xin hỏi Ông A Ă Â.

Ngày 30-10-Ất Sửu (dl 15-12-1925), Ông AĂÂ giáng dạy rằng: "Ngày mùng 1 tháng 11 nầy (dl 16-12-1925), tam vị phải Vọng Thiên Cầu Ðạo. Tắm gội cho tinh khiết, ra quì giữa Trời, cầm 9 cây nhang mà vái rằng: Ba tôi là Cao quỳnh Cư, Phạm công Tắc, Cao hoài Sang, vọng bái Cao Ðài Thượng Ðế, ban ơn đủ phước lành cho 3 tôi cải tà qui chánh."
Nhớ lời Ông A Ă Â dạy, ba ông quì ngoài sân, sắp đặt có một cái bàn nhỏ, quì chống tay trên bàn, mỗi người cầm 9 cây nhang vái y như lời Ðấng AĂÂ dạy bảo.
Ba ông cứ tịnh tâm mặc niệm vái như lời Ông AĂÂ dạy, không nhớ tới cái vụ quì ngoài đường, có kẻ qua người lại dập dìu, lớp thì xe cộ họ đi chơi, đi coi hát về, họ dừng chân lại coi ba ông nầy cúng vái ai mà quì ngoài sân cỏ như vậy. Ai coi mặc ai, ba ông cứ quì đó cầu khẩn van vái cho tàn hết 9 cây nhang."

Qua đoạn Ðạo Sử trên, chúng ta nhận thấy Ðức Phật Mẫu ra lịnh Vọng Thiên Cầu Ðạo, tức là bắt đầu Khai Tông Ðịnh Ðạo, nhưng mọi việc sắp đặt đều do Ðức Chí Tôn.

Câu 50: "Ân dưỡng sanh đảm bảo hồn hài."
Ân dưỡng sanh: Cái công ơn sanh ra và nuôi dưỡng cho khôn lớn. Ðảm bảo: Bảo đảm, quyết định gìn giữ với trách nhiệm cao. Hồn hài: Linh hồn và hình hài. Hình hài ở đây là chỉ hình hài thiêng liêng, tức là Chơn thần.
C.50: "Công ơn của Ðức Phật Mẫu là sanh ra, rồi nuôi dưỡng cho khôn lớn, lại còn gìn giữ Linh hồn và Chơn thần được toàn vẹn."

Câu 51: "Càn Khôn tạo hóa sánh tài."
Càn Khôn: Trời Ðất, tức là Càn Khôn Vũ trụ.
Tạo hóa: Tạo là làm ra, hóa là biến đổi. Tạo hóa là làm ra và biến đổi. Ðấng Tạo Hóa: Theo ngôn ngữ thông thường, Ðấng Tạo Hóa là Ông Trời, tức là Ðấng Thượng Ðế, là Ðức Chí Tôn, nhưng thật ra, theo Triết lý của Ðạo Cao Ðài, Ðức Chí Tôn giao nhiệm vụ tạo hóa cho Ðức Phật Mẫu, nên từng Trời của Ðức Phật Mẫu ngự gọi là Tạo Hóa Thiên.

Ðức Phật Mẫu chưởng quản Khí Âm quang, thâu lằn Sanh quang của Ngôi Thái Cực, rồi bắt lấy Khí Dương quang của Ðức Chí Tôn, cho phối hợp với Âm quang của Phật Mẫu, tạo hóa ra CKVT và vạn vật.

Cho nên Ðấng Tạo Hóa thực sự là Ðức Phật Mẫu ở từng Trời Tạo Hóa Thiên. Nhưng vì Ðức Phật Mẫu là một hóa thân của Ðức Chí Tôn, và nhiệm vụ Tạo Hóa là do Ðức Chí Tôn ban cho, nên nói Ðấng Tạo Hóa là Ðức Chí Tôn thì cũng đúng.

Sánh: do chữ SÍNH đọc trại ra. Sính là mặc sức làm.
Sánh tài hay Sính tài: Mặc sức trổ tài làm việc.
C.51: "Càn Khôn tạo hóa sánh tài, nghĩa là Ðức Phật Mẫu mặc sức trổ tài tạo hóa ra CKVT và vạn vật."

Câu 52: "Nhứt triêu nhứt tịch kỉnh bài mộ khang."
Nhứt: Mỗi một. Triêu: Sáng sớm. Tịch: Chiều tối.
Nhứt triêu: Mỗi buổi sáng. Nhứt tịch: Mỗi buổi chiều tối. Kỉnh: Kính trọng. Bài: Sắp đặt. Mộ: Buổi chiều. Khang: An ổn vui vẻ.
C.52: "Mỗi buổi sáng, mỗi buổi chiều, mỗi buổi tối, chúng ta phải sắp đặt để đến viếng an Ðức Mẹ."

Ý nói: Chúng ta phải cúng lạy Ðức Phật Mẫu cho thường, cúng sáng, cúng trưa, cúng tối, điều đó giống y như là chúng ta đến săn sóc và viếng an Ðức Mẹ vậy.

53. Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu
Tạo Hóa Huyền Thiên cảm bái.
54. Nam mô Ðại Từ Bi Năng Hỷ Xả
Thiên Hậu Chí Tôn Ðại Bi Ðại Ái.
  

Lạy 3 lạy, mỗi lạy 3 gật, mỗi gật niệm:
Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.

GIẢI NGHĨA
Câu 53: "Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Tạo Hóa Huyền Thiên cảm bái."
Nam mô: Quyết chí vâng theo một cách cung kính. Ðây là 2 tiếng mở đầu cho một câu cầu nguyện. (Xem chi tiết nơi Câu 1 Ngũ Nguyện). Huyền Thiên: Huyền là huyền diệu, Thiên là từng Trời. Huyền Thiên là từng Trời huyền diệu.
Tạo Hóa Huyền Thiên: Từng Trời Tạo Hóa huyền diệu. Ðây là Từng Trời thứ 9 trong Cửu Trùng Thiên do Ðức Phật Mẫu chưởng quản. Cảm: Mối rung động trong lòng. Bái: Lạy. Cảm bái: Kính lạy với sự xúc cảm trong lòng.
C.53: Chúng con cầu nguyện và kính lạy Ðức Phật Mẫu ở từng Trời Tạo Hóa Thiên huyền diệu với tất cả sự cảm xúc trong lòng.
Câu 54: "Nam mô Ðại Từ Bi Năng Hỷ Xả Thiên Hậu Chí Tôn Ðại Bi Ðại Ái."
Ðại: Lớn. Từ Bi: Lòng thương yêu bao la thương khắp chúng sanh, luôn luôn muốn giúp chúng sanh thoát khổ.

Năng: Khả năng, sự tài giỏi làm nên việc. Hỷ: Mừng rỡ, vui vẻ. Xả: Tha thứ, bỏ qua. Hỷ xả: Vui vẻ tha thứ cho người xúc phạm đến mình hay có lỗi với mình.
Thiên Hậu: Một danh hiệu của Ðức Phật Mẫu.
Chí Tôn: Rất được kính trọng, tôn kính tột bực.
Ðại ái: Lòng thương yêu to lớn. Ðó là lòng thương yêu bao la của Ðức Phật Mẫu đối với chúng sanh vì chúng sanh nơi cõi trần đều là con cái của Phật Mẫu.
C.54: "Chúng con cầu nguyện với Ðức Phật Mẫu có đức từ bi lớn, đức hỷ xả lớn, đức bác ái lớn, với tấm lòng tôn kính tột bực của chúng con."
1 ]  2 ]  3 ]  4 ]  5 ]  6 ]  7 ]  8 ]  9 ]  10 ]  11 ]  12 ]  13 ]  14 ]  15 ]  16 ]  17 ]  18 ]  19 ]  20 ] [ 21 ]  22 ]  23 ]  24 ]  25 ]  26 ]  27 ]  28 ]  29 ]  30 ]  31 ]  32 ]  33 ]  34 ]  35 ]  36 ]  37 ]  38 ]  39 ]  40 ]  41 ]  42 ]  43 ]  44 ]  45 ]  46 ]  47 ]  48 ]  49 ]  50 ]  51 ]  52 ]  53 ]  54 ]  55 ]  56 ]  57 ]  58 ]  59 ]  60 ]  61 ]  62 ]  63 ]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét