29. "Thập Thiên can bao hàm vạn tượng,
30. Tùng Ðịa chi hóa trưởng Càn Khôn.
31. Trùng huờn phục vị Thiên môn,
32. Nguơn linh hóa chủng quỉ hồn nhứt thăng."
十 天 干 包 含 萬 象
從 地 支 化 長 乾 坤
重 還 復 位 天 門
元 靈 化 種 鬼 魂 一 升
GIẢI NGHĨA
Câu 29-30: "Thập
Thiên can bao hàm vạn tượng."
"Tùng Ðịa chi
hóa trưởng Càn Khôn."
Thập Thiên can: Mười Can Trời gồm: Giáp, Ất, Bính, Ðinh, Mậu, Kỷ, Canh,
Tân, Nhâm, Quí.
Thập nhị Ðịa chi: Mười hai Chi Ðất gồm: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ,
Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
CAN và CHI, theo chữ gốc là Cán và Chi. Cán là thân cây, Chi là cành cây. Thân cây và
cành cây liên kết nhau mới thành một cái cây. Tương truyền, vào thời vua Hiên Viên Huỳnh Ðế, có ông Ðại Nhiêu sáng tạo ra Thập Thiên Can
và Thập nhị Ðịa Chi dùng để tính thời gian và làm lịch.
Bao hàm: Gồm chứa,
chứa đựng bên trong. Tượng: Hình dáng bên
ngoài. Vạn tượng: Muôn hình trạng.
Tùng: Theo. Hóa:
Biến đổi. Trưởng: Lớn lên. Càn Khôn: Trời Ðất, chỉ CKVT.
Hai Câu 29 &
30: Thập Thiên Can bao gồm ngàn hình muôn
trạng. Thập Thiên Can tùng theo Thập nhị Ðịa Chi làm biến đổi và lớn rộng thêm
Càn Khôn Vũ Trụ.
Khi sáng tạo ra
CKVT, người và vạn vật, Ðức Chí Tôn dùng Thập nhị Ðịa Chi đặt tên cho
các khoảng thời gian sáng tạo: "Thiên khai ư Tý, Ðịa tịch ư Sửu, Nhơn sanh ư Dần."
Nghĩa là: Trời khai ở Hội Tý, Ðất mở ra ở Hội Sửu, Người sanh ra ở Hội Dần. (Hội
là một khoảng thời gian rất dài, lớn hơn một Chuyển. Một Hội có nhiều Chuyển, một
Chuyển có 3 Nguơn: Thượng Nguơn, Trung Nguơn, Hạ Nguơn).
Câu 31: "Trùng
huờn phục vị Thiên môn."
Trùng: Lập lại nhiều lần giống nhau. Huờn: Hoàn trả lại. Phục vị: Phục là
trở lại, vị là ngôi vị. Phục vị là trở lại ngôi vị cũ. Thiên môn: Cửa Trời, cõi
Trời, tức là cõi TLHS.
C.31: "Nhiều lần cho trở lại
ngôi vị cũ nơi cõi TLHS."
Câu 32: "Nguơn
linh hoá chủng quỉ hồn nhứt thăng."
Nguơn linh: Nguyên linh. Nguyên là khởi đầu, cái chỗ bắt đầu. Linh là linh
hồn. Nguơn linh là những linh hồn được sanh ra từ lúc Khai Thiên, đầu thai xuống
trần, được gọi là Nguyên nhân. Hóa: Biến đổi. Chủng: Loài, loại.
Quỉ hồn: Linh hồn của Quỉ, tức là những Linh hồn thuộc về Quỉ vị. Khi Quỉ hồn
đầu kiếp nơi cõi trần để làm người thì được gọi là Quỉ nhân.
Nơi cõi trần có 3 hạng người phân chia theo phẩm chất của Linh hồn: Nguyên
nhân, Hóa nhân, Quỉ nhân.
Nguyên nhân là những chơn linh được sanh ra từ lúc Khai Thiên, nay đầu kiếp
xuống trần.
Hóa nhân là những người do sự tiến hóa của loài Thú cầm mà sanh ra.
Quỉ nhân là những quỉ hồn đầu thai lên. Nguyên nhân và Hóa nhân, nếu gây ra
nhiều tội lỗi nặng nề, phạm Thiên điều thì linh hồn bị đọa vào Quỉ vị, biến
thành Quỉ hồn.
Nhứt: Bao gồm tất cả. Thăng: Siêu thăng.
C.32: "Các Nguyên hồn đã được
sanh ra từ lúc Khai Thiên, nay biến thành các loại Quỉ hồn, đều được độ rỗi để
tất cả đều được siêu thăng."
Dù là Nguyên nhân, Hóa nhân hay Quỉ nhân, tất cả cũng đều là con cái của
Chí Tôn và Phật Mẫu. ÐÐTKPÐ là Ðại Ân Xá Kỳ Ba, tận độ chúng sanh, nên Phật Mẫu
từ bi cứu giúp toàn cả con cái của Ngài để tất cả đều được siêu thăng.
TNHT. II. 85: "Bần đạo chẳng kể
là Nguyên nhân, Hóa nhân hay Quỉ nhân, ví biết lập công thì thành đạo."
33. "Vô siêu đọa quả căn hữu pháp,
34. Vô khổ hình nhơn kiếp lưu oan.
35. Vô Ðịa ngục, vô quỉ quan,
36. Chí Tôn Ðại Xá nhứt trường qui
nguyên."
無 超 墮 果 根 有 法
無 苦 刑 人 劫 留 冤
無 地 獄 無 鬼 關
至 尊 大 赦 一 場 歸 元
GIẢI NGHĨA
Câu 33: "Vô
siêu đọa quả căn hữu pháp."
Vô: Không. Siêu đọa: Siêu thăng và đày đọa.Vô siêu đọa: Vô siêu vô đọa,
không siêu thăng mà cũng không đày đọa. Quả căn: Căn là gốc rễ, Quả là cái kết
quả. Quả căn hay Căn quả là cái kết quả tốt hay xấu của kiếp sống hiện tại là
do gốc rễ là những việc làm thiện hay ác trong kiếp trước. Nếu trong kiếp sống
hiện tại gặp nhiều hoạn nạn là bởi căn xưa không lành. Hữu: Có. Pháp: Pháp luật.
C.33: "Không siêu thăng, không đọa
đày, căn quả của mỗi người đều có luật pháp định rõ."
(Vô siêu đọa cũng có thể được giải thích là: Không đày đọa quá mức. Siêu là
quá mức. C.33: Không đày đọa quá mức, căn quả của mỗi người đều có luật pháp định
rõ. Bởi vì trong Câu kinh 32, tất cả đều được siêu thăng, dầu Quỉ hồn cũng vậy.(
Câu 34: "Vô
khổ hình nhơn kiếp lưu oan."
Khổ hình: Hình phạt khổ sở. Vô khổ hình: Không có các hình phạt khổ sở.
Nhơn kiếp: Kiếp sống của con người. Lưu: Ðể lại. Oan: Thù giận. Lưu oan: Lưu lại
các oan nghiệt. Nhơn kiếp lưu oan: Những mối oan nghiệt của các kiếp sống trước
còn lưu lại.
C.34: "Không có những hình phạt khổ sở do các oan nghiệt của các kiếp
sống trước còn lưu lại." (vì các oan nghiệt ấy đã được Ðức Phật Mẫu tiêu
diệt hết do lịnh Ðại Ân Xá của Ðức Chí Tôn).
Câu 35: "Vô
Ðịa ngục, Vô quỉ quan."
Ðịa ngục: Cõi tối tăm để giam giữ và trừng phạt các linh hồn tội lỗi. Có tất
cả 10 cửa Ðịa ngục do Thập Ðiện Diêm Vương cai quản, dưới quyền của Ðức Ðịa Tạng
Vương Bồ Tát.
Quỉ quan: Cửa quỉ, nơi giam giữ loài quỉ. Quan là cái cửa.
C.35: "Không còn Ðịa ngục, không
còn cửa quỉ."
Ý nói: Ðịa ngục và cửa quỉ đã bị đóng cửa hoàn toàn, không còn được dùng
làm nơi giam giữ, đày đọa và trừng phạt các tội hồn.
Câu 36: "Chí
Tôn đại xá nhứt trường qui nguyên."
Ðại xá: Xá là
tha tội. Ðại xá là tha tội cho tất cả những người phạm tội, không giới hạn. Thường nói là Ðại Ân Xá. Khi Ðức Chí Tôn khai
ÐÐTKPÐ thì Ðức Chí Tôn cũng mở ra một cuộc Ðại Ân Xá cho các đẳng chơn hồn
trong khắp CKVT. (Xem chi tiết ngay ở phần sau). Trường: Nơi tụ họp nhiều người.
Nhứt trường: Một trường. Qui nguyên: Trở về gốc. Cái gốc ấy là nơi xuất
phát ra mình, đó là Thái Cực, tức là Ðấng Chí Tôn Thượng Ðế.
C.36: "Ðức Chí Tôn Ðại khai Ân
Xá, tha thứ tội tình cho chúng sanh để đem con cái của Ngài trở về hiệp vào một
chỗ cùng Ngài."
Ðại Ân Xá Kỳ Ba
Kể từ ngày khai Ðạo Cao Ðài, Ðức Chí Tôn mở ra một thời kỳ Ðại Ân Xá cho
toàn thể chúng sanh và cho các đẳng linh hồn.
Muốn hưởng được sự ân xá nầy, mỗi người phải biết thành tâm hối lỗi, ăn năn
sám hối tội tình, cải tà qui chánh, nguyện thề từ bỏ các lỗi lầm để chuyên tâm
lo việc tu hành, lập công bồi đức.
"Mỗi lần Khai Ðạo là
Ðức Chí Tôn Ðại Ân Xá, tức là ban cho những người biết hồi đầu hướng thiện và
lo việc tu hành, một ân huệ lớn lao, nghĩa là những tội lỗi của họ đã chồng chất
từ mấy kiếp trước được Ơn trên bôi xóa và cho họ làm một Tân dân (người dân mới)
trong cửa Ðạo với một Tư Pháp Lý Lịch còn trinh bạch. Nhờ vậy, người nhập môn
hành đạo mới rảnh nợ tiền khiên, chỉ lo trau giồi Ðạo hạnh và lập công bồi đức,
là đắc đạo trong một kiếp tu.
Hạ nguơn nầy, Ðức Chí Tôn
lập Ðạo Kỳ Ba, nên mới có Ðại Ân Xá Kỳ Ba. Phép Giải Oan, Phép Cắt Dây Oan Nghiệt,
Phép Ðộ Thăng và các phép Bí tích khác của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ được đem áp dụng
trong sự thi hành luật Ðại Ân Xá đó vậy." (Trích Giáo lý Bài 18, Khóa Huấn Luyện Giáo Hữu, tại TTTN Toa Thanh Tay
Ninh ).
Ngày chánh thức Khai Ðạo là 15-10 Âm lịch, tức là Rằm Hạ nguơn năm Bính Dần
(1926) là ngày khởi đầu thời kỳ Ðại Ân Xá Kỳ Ba, Ðức Chí Tôn ban cho nhơn loại
những ơn huệ đặc biệt sau đây:
1) Tha thứ tội lỗi ở các kiếp trước của những người biết hồi đầu hướng thiện,
nhập môn cầu Ðạo, lập Minh Thệ cùng các Ðấng Thiêng liêng, nhứt tâm lo việc tu
hành.
May đặng gặp hồng ân
chan rưới,
Giải trái oan sạch tội
tiền khiên. (KGO Kinh Giai Oan )
Chí Tôn xá tội giải
oan,
Thánh Thần Tiên Phật cứu
nàn độ căn.
Ơn Tạo Hóa tha tiền
khiên trước,
Ðưa linh phan tiếp rước nguyên nhân. (KCBCTBCHÐQL Kinh Cau Ba Con Than Bang
Co Huu Ða Qui Lieu )
2) Ðức Chí Tôn đặc ân cho các tín đồ Cao Ðài, khi chết, linh hồn được Cửu vị
Tiên Nương hướng dẫn đi qua các từng Trời của Cửu Trùng Thiên, mỗi nơi đều được
quan sát các cảnh Trời đẹp đẽ mà dưới thế gian nầy không bao giờ có, đến bái kiến
các Ðấng Thần, Thánh, Tiên, Phật, đến Minh Cảnh Ðài để xem xét trở lại các hành
vi thiện ác của mình trong suốt kiếp sống nơi cõi trần, đến Diêu Trì Cung bái
kiến Ðức Phật Mẫu, đến Ngọc Hư Cung bái kiến Ðức Chí Tôn để cây Cân Công Bình thiêng
liêng cân tội phước. Phước nhiều thì được phong thưởng bằng những phẩm vị Thần
Thánh Tiên Phật tương xứng. Nếu tội nhiều thì bị đưa về cõi Âm Quang, vô Tịnh
Tâm Xá mà định tâm tịnh trí, ăn năn sám hối tội tình, cầu nguyện Ðức Chí Tôn độ
rỗi. Tại cõi Âm Quang có Thất Nương DTC giáo hóa các Nữ tội hồn, và Ðịa Tạng
Vương Bồ Tát giáo hóa các Nam tội hồn.
3) Ðức Chí Tôn cho đóng cửa Ðịa Ngục. Các tội hồn không còn bị giam giữ và
bị hành hình trong Ðịa ngục nữa, mà được đưa đến cõi Âm Quang để học Ðạo, cầu
khẩn Ðức Chí Tôn độ rỗi, chờ ngày trở lại cõi trần đặng tái kiếp mà trả cho
xong căn quả.
4) Ðức Chí Tôn cho mở cửa Cực Lạc Thế Giới để đón rước người đắc đạo. Nếu
người nào quyết chí tu hành, chỉ trong một kiếp tu cũng đủ đắc đạo. "Nên Thầy cho một quyền rộng rãi cho cả
nhơn loại trong Càn Khôn Thế Giới, nếu biết ngộ kiếp một đời tu, đủ trở về cùng
Thầy đặng." (TNHT. I. 76).
Ðóng Ðịa ngục, mở tầng Thiên,
Khai đường Cực Lạc, dẫn miền Tây phương. (KGO)
5) Những người bị tội Tận đọa Tam đồ bất năng thoát tục, hay bị Ngũ Lôi tru
diệt, cũng nhờ Ðại Ân Xá nầy mà được Ðức Phật Mẫu cho huờn lại Chơn linh và
Chơn thần đặng tái kiếp lập công chuộc tội.
Thời kỳ Ðại Ân Xá không phải kéo dài mãi mãi đến thất ức niên (700 000 năm)
mà chỉ được giới hạn trong giai đoạn đầu của thời kỳ Khai Ðạo. Ðức Chí Tôn và
các Ðấng Thiêng liêng không tiết lộ cho biết Ðại Ân Xá kéo dài trong bao nhiêu
năm, nhưng theo sự khảo cứu tổng hợp các tài liệu, thì thời kỳ Ðại Ân Xá của Ðức
Chí Tôn bắt đầu kể từ ngày Khai Ðạo 15 tháng 10 năm Bính Dần (1926), cho đến
khi Ðức Phật Di-Lạc khai Ðại Hội Long Hoa, là chấm dứt, vì đã bước qua một chu
trình tiến hóa mới của nhơn loại.
Chúng ta hôm nay gặp Ðạo Cao Ðài là một duyên may ngàn năm một thuở, nếu
không mau tiến bước trên đường tu hành, cứ để ngày tháng lần lừa trôi qua, thì
có mong chi đắc quả, trở về ngôi vị cũ.
37. "Chiếu nhũ lịnh Từ Huyên thọ sắc,
38. Ðộ anh nhi Nam, Bắc, Ðông, Tây.
39. Kỳ khai tạo nhứt linh đài,
40. Diệt hình tà pháp cường khai đại
đồng."
照 乳 令 慈 萱 受 敕
度 嬰 兒 南 北 東 西
期 開 造 一 靈 臺
滅 形 法 強 開 大 同
GIẢI NGHĨA
Câu 37: "Chiếu
nhũ lịnh Từ Huyên thọ sắc."
Chiếu: Căn cứ vào, noi theo. Nhũ: Sữa, cái vú mẹ, chỉ bà mẹ. Nhũ lịnh: Lịnh
của Mẹ. Ở đây ý nói: Lịnh của Ðức Phật Mẫu.
Từ: Lòng thương yêu của người trên đối vói kẻ dưới.
Huyên: Cỏ huyên, chỉ người mẹ.
Huyên là loại cỏ sống lâu năm, người xưa cho rằng ăn cỏ huyên thì khỏi buồn
phiền, nên cỏ huyên còn có tên là Vong Ưu thảo. Trong Kinh Thi có câu: "An
đắc huyên thảo, ngôn thụ chi bối." (Làm sao có được cỏ huyên trồng ở chái
nhà phía Bắc). Ðời xưa, chái nhà phía Bắc là chỗ ở của mẹ. Trồng cỏ huyên nơi
chỗ ở của mẹ là có ý muốn cho mẹ khỏi buồn phiền. Do đó, trong văn học cổ, người
ta dùng chữ Huyên đường (Nhà huyên) là để chỉ người mẹ.
Từ Huyên: Người mẹ hiền thương yêu con cái, chỉ Ðức Phật Mẫu. Thọ: còn đọc
Thụ, nghĩa là nhận lãnh. Sắc: Tờ giấy viết lịnh của vua, ý nói tờ giấy viết lịnh
của Ðức Chí Tôn.
C.37: "Chiếu theo lịnh của Ðức
Phật Mẫu, mà Ðức Phật Mẫu đã nhận lãnh Sắc lịnh của Ðức Chí Tôn."
Câu 38: "Ðộ anh nhi Nam,
Bắc, Ðông, Tây."
Ðộ: Cứu giúp. Anh nhi: Anh là đứa trẻ mới lọt lòng mẹ, nhi là con trẻ. Anh
nhi là chỉ chung con cái của Ðức Phật Mẫu, tức là toàn thể nhơn loại, vì Ðức Phật
Mẫu xem nhơn loại là con cái nhỏ dại của Người. Nam, Bắc, Ðông, Tây: 4 hướng, ý
nói khắp nơi trên cõi trần.
C.38: "Ðức Phật Mẫu cứu giúp
toàn thể con cái khắp nơi trên cõi trần."
Câu 39: "Kỳ
khai tạo nhứt linh đài."
Kỳ: Thời kỳ. Khai: Mở ra. Kỳ khai: Mở ra một thời kỳ, tức là mở ra ÐÐTKPÐ.
Tạo: Làm ra. Nhứt: Một. Linh: Thiêng liêng. Linh đài: Cái đài thiêng liêng, chỉ
cái Tâm của con người. Trang Tử có nói: "Bất khả nội ư linh đài",
nghĩa là: Không thể ở trong cái Tâm của người ta được. Ý nói không thể biết rõ
lòng dạ của người ta được.
Thơ của Bùi Ðộ nhà Ðường có câu: "Nhứt điểm linh đài đan thanh mạc trạng.",
nghĩa là: Một điểm linh đài, đỏ xanh không vẽ nên hình trạng được.
Như vậy thì cái Tâm của con người không có hình sắc, mầu nhiệm thiêng
liêng. Chúng ta không thể nhìn thấy cái Tâm được, nhưng có thể nhận biết nó, vì
cái Tâm có bản chất lành, nên gọi là Lương Tâm, thường khiến con người làm điều
hay sự phải, giục con người mến đạo đức chuộng tinh thần, biết thuận tùng Thiên
lý. Người làm điều không phải thì bị Lương Tâm cắn rứt. Kẻ làm ác là vì cái Tâm
bị vật dục che lấp nên không còn điều khiển hành vi theo đường chơn thiện. Tâm
sáng thì gần Tiên Phật, Tâm u tối thì gần Quỉ ma.
Linh đài cũng là cái Tâm của Vũ trụ. Ðó chính là Thiên nhãn (Nhãn thị chủ
Tâm), tượng trưng cho khối đức tin của nhơn loại. Ðức tin đó là nhận 2 Ðấng Chí
Tôn và Phật Mẫu là Ðại Từ Phụ và Ðại Từ Mẫu của nhơn loại. Có Ðức tin vững chắc
như thế thì nhơn loại mới nhìn nhau là anh em một nhà, mới thương yêu giúp đỡ
nhau. Ðó là yếu tố then chốt tiến đến Ðại Ðồng nhơn loại.
C.39: "Mở ra ÐÐTKPÐ là để tạo một
khối đức tin lớn cho toàn nhơn loại."
Câu 40: "Diệt
hình tà pháp, cường khai Ðại Ðồng."
Diệt: Làm cho mất đi. Hình: Cái hiện ra trước mắt, hình thức. Tà pháp: Tất
cả những việc không ngay thẳng, không chơn thật, có mục đích không tốt đẹp.
Cường khai: Mở ra một cách mạnh mẽ.
Ðại Ðồng: Cùng chung một qui mô lớn lao. Xã hội Ðại Ðồng là một xã hội
trong đó, khắp mọi nơi đều hòa bình vui vẻ, mọi người đều bình đẳng, không còn
phân biệt giai cấp, chủng tộc, xem nhau như anh em một nhà. Ðó là một xã hội
thái bình an lạc lý tưởng, là đời Thượng nguơn Thánh đức.
C.40: "Tiêu diệt tất cả các hình
thức của tà quái để mở ra một cách mạnh mẽ xã hội Ðại Ðồng cho toàn nhơn loại."
41. "Hiệp vạn chủng nhứt môn đồng mạch,
42. Qui Thiên lương quyết sách vận
trù.
43. Xuân Thu, Phất Chủ, Bát Vu,
44. Hiệp qui Tam giáo hữu cầu chí
chơn."
協 萬 種 一 門 同 脈
歸 天 良 決 策 運 籌
春 秋 拂 麈 缽 盂
協 歸 三 敎 有 求 至 眞
GIẢI NGHĨA
Câu 41: "Hiệp
vạn chủng nhứt môn đồng mạch."
Hiệp: Hợp lại, gom lại. Vạn chủng: Muôn loài, chỉ toàn thể nhơn loại gồm
nhiều chủng tộc. Nhứt môn: Một cửa, ý nói một nhà. Ðồng mạch: Ðồng là cùng, mạch
là đường nước chảy. Ðồng mạch là cùng một đường nước chảy, ý nói cùng chung một
tín ngưỡng.
C.41: "Hợp các chủng tộc của
nhơn loại thành một nhà, trong một tín ngưỡng chung, cùng tôn thờ hai Ðấng Cha
Mẹ chung thiêng liêng là Ðức Chí Tôn và Ðức Phật Mẫu."
Câu 42: "Qui Thiên lương quyết
sách vận trù."
Qui: Trở về, đem trở về. Thiên: Trời. Lương: Tốt đẹp. Thiên lương là cái tốt
đẹp do Trời ban cho mỗi người. Ðó chính là cái Tâm chơn chánh và lành, nên gọi
là Lương Tâm. Lương Tâm chỉ là sự thể hiện của Chơn linh, mà Chơn linh là điểm
Linh quang của Ðức Chí Tôn ban cho mỗi người.
Quyết: Liệu định. Sách: Kế hoạch. Vận trù: Vận động và trù liệu toan tính
công việc.
C.42: "Ðức Phật Mẫu liệu định kế
hoạch, vận động và toan tính đem cái Thiên lương (Tâm) trở lại làm chủ con người."
Bấy lâu nay, cái Tâm của con người bị lục dục thất tình che lấp, không làm
chủ con người, nên lần lần con người đi vào đường vật chất, gây ra lắm tội
tình. Nếu kềm chế được thất tình và lục dục thì Thiên lương sẽ được sáng tỏ trở
lại, làm chủ con người, khiến con người đi vào đường đạo đức.
Câu 43: "Xuân Thu, Phất Chủ, Bát
Vu."
Xuân Thu: là quyển Kinh Xuân Thu do Ðức Khổng Tử viết ra để bày tỏ cái Ðạo
của Ngài. Mới nhìn thì Xuân Thu là một quyển sách lịch sử của nước Lỗ, nhưng Ðức
Khổng Tử đã vận dụng văn tự, và bút pháp để khen chê, phân biệt tà chánh rất
minh bạch và đanh thép, nên người đời sau phải công nhận đó là những búa rìu
trong Kinh Xuân Thu. "Khổng Tử tác Xuân Thu nhi loạn thần tặc tử cụ."
nghĩa là: Ðức Khổng Tử làm Kinh Xuân Thu mà bọn loạn thần gian tặc sợ.
Như thế, Kinh Xuân Thu là sách để Tâm truyền đại nghĩa Danh và Phận về đường
luân lý và chánh trị. Ðức Khổng Tử nói: "Tri
Ngã giả kỳ duy Xuân Thu hồ, tội Ngã giả kỳ duy Xuân Thu hồ." Nghĩa là:
Người biết Ta cũng chỉ ở Kinh Xuân Thu, người trách tội Ta cũng chỉ ở Kinh Xuân
Thu.
Kinh Xuân Thu là biểu tượng của Khổng Tử, Ðạo Cao Ðài chọn Kinh Xuân Thu
làm Cổ pháp tượng trưng Nho giáo.
Phất Chủ: Phất là quét, Chủ là con chủ, một giống thú thuộc loài nai, hình
dáng như con hươu mà lớn hơn. Thường thì con chủ đi trước, đàn hươu đi theo
sau, đuôi con chủ phẩy sạch bụi, nên ngày xưa thường dùng đuôi con chủ làm cây
phất trần, tức là cây chổi quét bụi; vì thế cây Phất trần còn được gọi là Chủ
vĩ (đuôi con chủ). Trong truyện Tam quốc, sau khi Quan Công bị chém đầu, hồn
bay phưởng phất trên đỉnh núi Ngọc Tuyền đòi trả đầu lại, Phổ Tịnh Thiền Sư lấy
"Ðuôi chủ" gõ vào cửa để gọi
hồn Quan Công. Quan Công liền đáp xuống ra mắt Thiền Sư. Thiền Sư giải rõ về
Nhơn Quả, Quan Công liền tỉnh ngộ và hiển Thánh.
Vậy, Phất chủ là cây chổi làm bằng đuôi con chủ, để các vị Tiên quét bụi.
Ðây là cây chổi Tiên để quét sạch bụi trần bám vào che lấp cái Tâm, để cái Tâm
trở nên trong sạch và sáng tỏ.
Theo Bí pháp Tiên gia, Phất chủ kết tụ điển khí của Thất bửu Diêu Trì Cung,
dùng sửa trau Chơn thần cho tinh khiết. Nguồn gốc của cây Phất chủ là của Ðức
Thái Thượng Ðạo Quân, một bảo vật của Tiên gia có phép thuật rất huyền diệu.
Các vị Tiên thường cầm Phất chủ.
Do đó, Ðạo Cao Ðài chọn Phất chủ làm Cổ Pháp tượng trưng Tiên giáo.
Bát Vu: Bát là cái chén đựng đồ ăn, Vu là cái bầu đựng đồ ăn và nước. Bát
Vu là cái bình đựng đồ ăn và nước của các vị Tăng Ni Phật giáo phái Khất sĩ,
dùng đi khất thực.
Mỗi vị Sư, khi thọ giới cụ túc thì được vị Hòa Thượng nhơn danh Giáo Hội
truyền cho một cái Bát, hoặc khi cái Bát bị hư bể thì cũng được Giáo Hội phát
cho cái khác.
Bình Bát vu (Bát) và áo Cà sa (Y), gọi tắt là Y Bát, của Ðức Phật Thích Ca
là 2 tín vật quí báu để truyền ngôi Tổ Sư Phật giáo. Khi Ðức Phật Thích Ca tịch,
Ngài truyền Y Bát nầy lại cho Ma Ha Ca Diếp làm tín vật để kế thừa Ngài, giữ
ngôi Nhứt Tổ Phật giáo Ấn Ðộ, điều hành toàn bộ Giáo hội Phật giáo. Y Bát nầy
truyền dần xuống đến đời Tổ Sư 28 là Ðạt Ma Tổ Sư, thì Y bát theo Ðạt Ma Tổ Sư
chuyển qua nước Trung Hoa để mở mang Phật giáo tại đây. Ðạt Ma Tổ Sư trở thành
Sơ Tổ của Phật giáo Trung Hoa. Tại đây, Ðạt Ma Tổ Sư truyền Y Bát qua 4 đời Tổ
nữa, thì đến Lục Tổ Huệ Năng. Sau đời Lục Tổ Huệ Năng thì không còn lệ truyền Y
Bát nữa, vì theo lời dặn dò của Ðạt Ma Tổ Sư, sau 200 năm kể từ ngày Ngài nhận
Y Bát làm Tổ thì không được truyền kế nữa. Lục Tổ Huệ Năng là vị Tổ Sư cuối
cùng có Y Bát. Chắc chắn các Tổ Sư biết rằng, sau đời Lục Tổ Huệ Năng thì Phật
giáo bắt đầu thất Chơn truyền, bước vào thời kỳ Mạt Pháp.
Ðạo Cao Ðài chọn Bình Bát vu làm Cổ Pháp tượng trưng Phật giáo.
Như vậy, Tam giáo: Nho, Thích, Lão, được tượng trưng bằng 3 Cổ Pháp:
Bình Bát vu, tượng trưng Phật giáo.
Cây Phất chủ, tượng trưng Tiên giáo.
Kinh Xuân Thu, tượng trưng Nho giáo.
Ghép chung 3 Cổ Pháp nầy lại để nói lên ý nghĩa là: Tam giáp qui nguyên, tức
là đem 3 nền Tôn giáo nầy cùng trở về một gốc, gốc đó là nguồn cội của CKVT, là
Thái Cực, là Thượng Ðế vậy.
Câu 44: "Hiệp qui Tam giáo hữu cầu
chí chơn."
Hiệp: Hòa hợp. Qui: Trở về. Hiệp qui: Trở về và hòa hợp với nhau. Tam giáo:
Ba nền tôn giáo lớn ở Á Ðông, gồm: Phật giáo, Tiên giáo, Nho giáo. Hữu: Có. Cầu:
Tìm kiếm, mong mỏi. Chí: Rất. Chí chơn: Rất chơn thật.
C.44: Ðem Tam giáo trở về hòa hợp với nhau thành một khối để mong tạo thành
một nền Ðại Ðạo rất chơn thật.
45. "Phục nguyên nhơn huờn tồn Phật tánh,
46. Giáo hóa hồn hữu hạnh hữu duyên.
47. Trụ căn quỉ khí Cửu tuyền,
48. Quảng khai Thiên thượng tạo quyền
chí công."
復 元 人 還 存 佛 性
敎 化 魂 有 幸 有 緣
住 根 鬼 氣 九 泉
廣 開 天 上 造 權 至 公
GIẢI NGHĨA
Câu 45: "Phục
nguyên nhơn huờn tồn Phật tánh."
Phục: Ðem trở về. Nguyên nhơn: Người mà linh hồn được sanh ra từ lúc khai
Thiên. (Xem trở lại Câu 7 PG) Huờn: Hoàn, trả lại. Tồn: Còn.
Phật tánh: Tánh Phật, tức là cái tánh giác ngộ. Ðó là cái tánh tốt đẹp và
lành mà Trời ban cho mỗi người. Phật tánh cò được gọi là: Giác tánh, Như Lai
tánh.
Con người ai ai cũng đều có Phật tánh, cho nên nếu biết lo tu hành thì đều
thành Phật. Dầu cho kẻ thiện hay người ác đều có Phật tánh như nhau, nhưng kẻ
ác thì Phật tánh bị vật dục che lấp hoàn toàn, còn người thiện thì Phật tánh tỏ
rạng.
Câu nói nổi tiếng của Lục Tổ Huệ Năng khi trả lời câu hỏi của Ngũ Tổ Hoằng
Nhẫn: "Người đành có Nam Bắc, tánh Phật há vậy sao?"
Chỉ có Phật thì Phật tánh hoàn toàn sáng suốt.
Theo Niết Bàn Kinh, Phật tánh có 7 tính chất: Hằng có, Trong sạch, Thực,
Lành, Ðương kiến, Chơn chánh, Khả chứng.
Vậy, Phật tánh là cái bổn tánh trong sạch thiện lương mà Trời ban cho mỗi
người. Cho nên cũng gọi là Thiên tánh.
C.45: "Ðem các nguyên nhân trở về
bằng cách hoàn trả và bảo tồn cái bổn tánh thiện lương chơn chánh mà Trời đã
ban cho mỗi người."
Các Nguyên nhân đầu kiếp xuống trần thì bị nhiễm trược trần, bị vật dục che
lấp Phật tánh, làm cho Phật tánh dường như mất đi. Nay, Ðức Phật Mẫu đến giúp họ
giác ngộ, cởi bỏ bức màn vô minh, thì Phật tánh tỏ rạng, giống như là đã đem Phật
tánh hoàn trả cho họ.
Câu 46: "Giáo
hóa hồn hữu hạnh hữu duyên."
Giáo hóa: Dạy dỗ cho biến đổi từ xấu ra tốt, từ dốt thành ra biết chữ
nghĩa. Hồn: Linh hồn, Chơn linh.
Hữu: Có. Hạnh: May mắn. Duyên: Mối dây ràng buộc được định sẵn từ trước.
Hữu hạnh: Có may mắn gặp được mối Ðạo. Hữu duyên: Có duyên với Phật, tức là
có duyên với việc tu hành.
C.46: "Giáo hóa các linh hồn có
may mắn (gặp Ðạo) và các linh hồn có duyên" (với việc tu hành).
Câu 47: "Trụ
căn quỉ khí Cửu tuyền."
Trụ: Giữ yên một chỗ, thường nói: An trụ.
Căn: Cái gốc rễ. Khí: Cái phần vô hình.
Quỉ khí: Quỉ hồn, tức là những linh hồn thuộc Quỉ vị.
Cửu tuyền: Cửu
là 9, Tuyền là suối. Cửu tuyền là Chín suối, chỉ cõi Âm phủ. Tương truyền, nơi Âm phủ có 9 dòng suối. Theo Thế Thuyết, sau khi Ân Trọng
Kham chết, Hoàn Huyền hỏi Ân Trọng Văn: Cha ngươi là Trọng Kham là người thế nào? Trọng Văn đáp: Tuy không thể làm sáng tỏ một đời, cũng đủ soi
rọi khắp Chín suối.
C.47: "Cái gốc của các Quỉ hồn
là ở cõi Âm phủ, nên Ðức Phật Mẫu giữ yên các Quỉ hồn tại nơi đó."
Câu 48: "Quảng
khai Thiên thượng tạo quyền chí công."
Quảng: Rộng rãi. Khai: Mở ra. Quảng khai: Mở rộng ra. Thiên thượng: Trên Trời,
chỉ cõi Trời, tức cõi TLHS. Quảng khai Thiên thượng: Mở rộng cõi Trời để rước
những người đắc đạo trở về. Tạo: Làm ra. Quyền: Quyền hành.
Chí công: Rất công bình. Cái Công bình nơi cõi thiêng liêng được tượng
trưng bằng Cây Cân Công Bình của Ðức Chí Tôn. Cái công bình đó mới là tuyệt đối,
vì không có chi có thể khuất lấp được, còn cái công bình nơi phàm trần chỉ là
cái công bình tương đối, vì sự phán xét của con người có giới hạn, và luật pháp
do con người đặt ra có tánh cách tương đối. Vì thế, người ta gọi Thượng Ðế là Ðấng
Chí Công.
C.48: "Ðức Phật Mẫu mở rộng cõi
Trời để thi hành cái quyền công bình thiêng liêng tuyệt đối của Trời."
(Ai có công thì được thưởng, ai có tội thì bị đọa đày).
49. "Lịnh Mẫu Hậu khai tông định Ðạo,
50. Ân dưỡng sanh đảm bảo hồn hài.
51. Càn Khôn tạo hóa sánh tài,
52. Nhứt triêu nhứt tịch kỉnh bài mộ
khang."
令 母 后 開 宗 定 道
恩 養 生 擔 保 魂 骸
乾 坤 造 化 逞 才
一 朝 一 夕 敬 排 暮 康
GIẢI NGHĨA
Câu 49: "Lịnh
Mẫu Hậu khai tông định Ðạo."
Lịnh: Mệnh lệnh. Mẫu Hậu: Một danh hiệu của Ðức Phật Mẫu. Lịnh Mẫu Hậu: Mệnh
lệnh của Ðức Phật Mẫu.
Khai: Mở ra. Tông: Cũng đọc là Tôn, tôn giáo. Khai tông: Mở ra một nền tôn
giáo. Ðịnh: Sắp đặt. Ðạo: Tôn giáo. Ðịnh Ðạo: Sắp đặt một nền tôn giáo.
C.49: "Ðức Phật Mẫu ra lịnh mở
ra một nền tôn giáo và sắp đặt các việc trong nền tôn giáo ấy."
Trong Ðạo Sử của Bà Nữ Ðầu Sư Hương Hiếu, Quyển I trang 28-29, có ghi lại sự
tích Ðức Phật Mẫu giáng dạy 3 vị Phò loan Vọng Thiên Cầu Ðạo. Ba vị Phò loan
là: Phạm công Tắc, Cao quỳnh Cư, và Cao Hoài Sang.
"Ngày 27-10-Ất Sửu (dl 12-12-1925), Bà Cửu Thiên Huyền Nữ giáng mách bảo
rằng: Mùng 1 nầy, tam vị đạo hữu Vọng Thiên Cầu Ðạo.
Bà thăng rồi, ba ông hợp nhau bàn giải không hiểu Cầu Ðạo là gì mà Bà dạy,
để cầu hỏi mấy Em.
Ngày sau, ba ông cầu Thất Nương hỏi: Thất Nương dạy giùm Cầu Ðạo là gì? Thất
Nương nói: Không phải phận sự của Em, xin hỏi Ông A Ă Â.
Ngày sau nữa, có các Ðấng giáng về, ba ông cũng hỏi thì các Ðấng cũng nói:
Không phải phận sự của tôi, xin hỏi Ông A Ă Â.
Ngày 30-10-Ất Sửu (dl 15-12-1925), Ông AĂÂ giáng dạy rằng: "Ngày mùng 1 tháng 11 nầy (dl
16-12-1925), tam vị phải Vọng Thiên Cầu Ðạo. Tắm gội cho tinh khiết, ra quì giữa
Trời, cầm 9 cây nhang mà vái rằng: Ba tôi là Cao quỳnh Cư, Phạm công Tắc, Cao
hoài Sang, vọng bái Cao Ðài Thượng Ðế, ban ơn đủ phước lành cho 3 tôi cải tà
qui chánh."
Nhớ lời Ông A Ă Â dạy, ba
ông quì ngoài sân, sắp đặt có một cái bàn nhỏ, quì chống tay trên bàn, mỗi người
cầm 9 cây nhang vái y như lời Ðấng AĂÂ dạy bảo.
Ba ông cứ tịnh tâm mặc niệm
vái như lời Ông AĂÂ dạy, không nhớ tới cái vụ quì ngoài đường, có kẻ qua người
lại dập dìu, lớp thì xe cộ họ đi chơi, đi coi hát về, họ dừng chân lại coi ba
ông nầy cúng vái ai mà quì ngoài sân cỏ như vậy. Ai coi mặc ai, ba ông cứ quì
đó cầu khẩn van vái cho tàn hết 9 cây nhang."
Qua đoạn Ðạo Sử trên, chúng ta nhận thấy Ðức Phật Mẫu ra lịnh Vọng Thiên Cầu
Ðạo, tức là bắt đầu Khai Tông Ðịnh Ðạo, nhưng mọi việc sắp đặt đều do Ðức Chí
Tôn.
Câu 50: "Ân
dưỡng sanh đảm bảo hồn hài."
Ân dưỡng sanh: Cái công ơn sanh ra và nuôi dưỡng cho khôn lớn. Ðảm bảo: Bảo
đảm, quyết định gìn giữ với trách nhiệm cao. Hồn hài: Linh hồn và hình hài.
Hình hài ở đây là chỉ hình hài thiêng liêng, tức là Chơn thần.
C.50: "Công ơn của Ðức Phật Mẫu
là sanh ra, rồi nuôi dưỡng cho khôn lớn, lại còn gìn giữ Linh hồn và Chơn thần
được toàn vẹn."
Câu 51: "Càn
Khôn tạo hóa sánh tài."
Càn Khôn: Trời Ðất, tức là Càn Khôn Vũ trụ.
Tạo hóa: Tạo là làm ra, hóa là biến đổi. Tạo hóa là làm ra và biến đổi. Ðấng
Tạo Hóa: Theo ngôn ngữ thông thường, Ðấng Tạo Hóa là Ông Trời, tức là Ðấng Thượng
Ðế, là Ðức Chí Tôn, nhưng thật ra, theo Triết lý của Ðạo Cao Ðài, Ðức Chí Tôn
giao nhiệm vụ tạo hóa cho Ðức Phật Mẫu, nên từng Trời của Ðức Phật Mẫu ngự gọi
là Tạo Hóa Thiên.
Ðức Phật Mẫu chưởng quản Khí Âm quang, thâu lằn Sanh quang của Ngôi Thái Cực,
rồi bắt lấy Khí Dương quang của Ðức Chí Tôn, cho phối hợp với Âm quang của Phật
Mẫu, tạo hóa ra CKVT và vạn vật.
Cho nên Ðấng Tạo Hóa thực sự là Ðức Phật Mẫu ở từng Trời Tạo Hóa Thiên.
Nhưng vì Ðức Phật Mẫu là một hóa thân của Ðức Chí Tôn, và nhiệm vụ Tạo Hóa là
do Ðức Chí Tôn ban cho, nên nói Ðấng Tạo Hóa là Ðức Chí Tôn thì cũng đúng.
Sánh: do chữ SÍNH đọc trại ra. Sính là mặc sức
làm.
Sánh tài hay
Sính tài: Mặc sức trổ tài làm việc.
C.51: "Càn Khôn tạo hóa sánh tài, nghĩa là Ðức
Phật Mẫu mặc sức trổ tài tạo hóa ra CKVT và vạn vật."
Câu 52: "Nhứt triêu nhứt
tịch kỉnh bài mộ khang."
Nhứt: Mỗi một.
Triêu: Sáng sớm. Tịch: Chiều tối.
Nhứt triêu: Mỗi
buổi sáng. Nhứt tịch: Mỗi buổi chiều tối. Kỉnh: Kính trọng. Bài: Sắp đặt. Mộ:
Buổi chiều. Khang: An ổn vui vẻ.
C.52: "Mỗi buổi sáng, mỗi buổi chiều, mỗi buổi
tối, chúng ta phải sắp đặt để đến viếng an Ðức Mẹ."
Ý nói: Chúng ta
phải cúng lạy Ðức Phật Mẫu cho thường, cúng sáng, cúng
trưa, cúng tối, điều đó giống y như là chúng ta đến săn sóc và viếng an Ðức Mẹ vậy.
53. Nam mô Diêu
Trì Kim Mẫu
Tạo Hóa Huyền
Thiên cảm bái.
54. Nam mô Ðại Từ
Bi Năng Hỷ Xả
Thiên Hậu Chí
Tôn Ðại Bi Ðại Ái.
南 無 瑤 池 金 母
造 化 玄 天 感 拜
南 無 大 慈 悲 能 喜 捨
天 后 至 尊 大 悲 大 愛
Lạy 3 lạy, mỗi lạy
3 gật, mỗi gật niệm:
Nam mô Diêu Trì
Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.
南 無 瑤 池 金 母 無 極 天 尊
GIẢI NGHĨA
Câu 53: "Nam mô Diêu
Trì Kim Mẫu Tạo Hóa Huyền Thiên cảm bái."
Nam mô: Quyết
chí vâng theo một cách cung kính. Ðây là 2 tiếng mở đầu cho một câu cầu nguyện.
(Xem chi tiết nơi Câu 1 Ngũ Nguyện). Huyền Thiên: Huyền là huyền diệu, Thiên là
từng Trời. Huyền Thiên là từng Trời huyền diệu.
Tạo Hóa Huyền
Thiên: Từng Trời Tạo Hóa huyền diệu. Ðây là Từng Trời thứ 9 trong Cửu Trùng
Thiên do Ðức Phật Mẫu chưởng quản. Cảm: Mối rung động
trong lòng. Bái: Lạy. Cảm bái: Kính lạy với sự xúc cảm trong lòng.
C.53: Chúng con cầu nguyện và kính lạy Ðức Phật Mẫu ở từng Trời Tạo Hóa
Thiên huyền diệu với tất cả sự cảm xúc trong lòng.
Câu 54: "Nam mô Ðại Từ Bi Năng Hỷ
Xả Thiên Hậu Chí Tôn Ðại Bi Ðại Ái."
Ðại: Lớn. Từ Bi: Lòng thương yêu bao la thương khắp chúng sanh, luôn luôn
muốn giúp chúng sanh thoát khổ.
Năng: Khả năng, sự tài giỏi làm nên việc. Hỷ: Mừng rỡ, vui vẻ. Xả: Tha thứ,
bỏ qua. Hỷ xả: Vui vẻ tha thứ cho người xúc phạm đến mình hay có lỗi với mình.
Thiên Hậu: Một danh hiệu của Ðức Phật Mẫu.
Chí Tôn: Rất được kính trọng, tôn kính tột bực.
Ðại ái: Lòng thương yêu to lớn. Ðó là lòng thương yêu bao la của Ðức Phật Mẫu
đối với chúng sanh vì chúng sanh nơi cõi trần đều là con cái của Phật Mẫu.
C.54: "Chúng con cầu nguyện với
Ðức Phật Mẫu có đức từ bi lớn, đức hỷ xả lớn, đức bác ái lớn, với tấm lòng tôn
kính tột bực của chúng con."
[ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ] [ 8 ] [ 9 ] [ 10 ] [ 11 ] [ 12 ] [ 13 ] [ 14 ] [ 15 ] [ 16 ] [ 17 ] [ 18 ] [ 19 ] [ 20 ] [ 21 ] [ 22 ] [ 23 ] [ 24 ] [ 25 ] [ 26 ] [ 27 ] [ 28 ] [ 29 ] [ 30 ] [ 31 ] [ 32 ] [ 33 ] [ 34 ] [ 35 ] [ 36 ] [ 37 ] [ 38 ] [ 39 ] [ 40 ] [ 41 ] [ 42 ] [ 43 ] [ 44 ] [ 45 ] [ 46 ] [ 47 ] [ 48 ] [ 49 ] [ 50 ] [ 51 ] [ 52 ] [ 53 ] [ 54 ] [ 55 ] [ 56 ] [ 57 ] [ 58 ] [ 59 ] [ 60 ] [ 61 ] [ 62 ] [ 63 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét