Kinh Khi Về (Giọng
Nam xuân)
1. "Cảm tạ ơn
trên đầu dìu dỡ,
2. Từ khi
đi khi trở lộn về.
3. Ðặng
xong phận sự mọi bề,
4. Tâm tu
lại vững chẳng hề lãng xao.
5. Những
nhớ bước Ðộng
đào buổi trước.
6. Những nhớ khi Hớn rước Diêu Trì.
7. Găn-Ta-Ca
đỡ bước đi,
8. Ra
thành Phật Tổ gặp kỳ ly cung.
9. Dẩy xe
trâu Côn Lôn trổi bánh,
10. Lý Lão Quân mong lánh phong trần.
11. Núi Ô-Li-Vê để dấu chân,
12. Gia-Tô Giáo chủ giải phần hữu sanh.
13. Con nguyện xin khuôn linh giúp sức,
14. Bước Ta-bà giục thức huệ quang.
15. Lòn thân dưới
phép sầu than,
16. Tìm phương cứu khổ mở đàng giải căn."
(Niệm 1 lần Câu
Chú của Thầy)
GIẢI NGHĨA
Câu 1-2: "Cảm tạ ơn trên đầu dìu dỡ,"
"Từ khi đi khi trở lộn về."
Ơn trên đầu: Ơn huệ của
Ðức Chí Tôn.
C.1-2: "Cảm tạ ơn Ðức Chí Tôn đã dìu dắt và
nâng đỡ từ khi bước chân ra đi cho đến khi quay trở về."
Câu 3-4: "Ðặng xong phận sự mọi bề, "
"Tâm tu lại vững chẳng hề lãng xao."
Ði làm phận sự xong xuôi
trọn vẹn mọi bề.
Cái Tâm tu hành vẫn vững
vàng, chẳng hề xao lãng.
Câu 5: "Những nhớ
bước Ðộng đào buổi trước."
"Những hay Nhẫng: Chỉ là, mãi. Những nhớ: Mãi
nhớ."
Ðộng đào: Ðộng là hang
núi, đào là cây đào, hoa đào. Ðộng đào là cái hang núi mà đường vào hang có mọc
nhiều cây đào, hoa đào rơi xuống trông rất đẹp mắt.
Ðộng đào là chỉ cõi Tiên
theo điển tích sau đây:
Ðiển tích: Trong bài Ðào
Hoa Nguyên Ký (Bài ghi lại về Suối Hoa Ðào), Ông Ðào Tiềm kể chuyện về suối hoa
đào như sau: Vào khoảng triều vua Hiếu Vũ Ðế nhà Tấn (376-396) có một người ở
huyện Vũ Lăng tỉnh Hồ Nam làm nghề đánh cá, chèo thuyền theo dòng khe mà đi,
quên mất đường xa gần, bỗng gặp một rừng cây đào mọc sát bờ khe mấy trăm bước,
không xen loại cây nào khác, cỏ thơm tươi đẹp, hoa rụng rực rỡ. Người đánh cá
lấy làm lạ, tiến thêm vô, đi đến cuối rừng. Rừng hết thì suối hiện ra và thấy
một ngọn núi. Núi có cái hang mờ mờ như có ánh sáng, bèn rời thuyền, rồi theo
cửa hang đi vào. Mới đầu, hang rất hẹp, chỉ vừa đi lọt một người đi. Vô hang
được vài chục bước thì hang nở rộng ra sáng sủa, mặt đất bằng phẳng trống trải,
thấy có nhà cửa tề chỉnh, ruộng tốt, ao đẹp, có cây dâu cây trúc, đường ruộng
thông nhau, có tiếng gà gáy chó sủa, người đi lại trồng trọt làm lụng.
Ðàn ông đàn bà mặc y phục
giống như người bên ngoài. Những cụ già tóc bạc và trẻ nhỏ để tóc trái đào đều
hớn hở vui vẻ.
Họ thấy người đánh cá đi
đến thì rất lấy làm lạ, hỏi ở đâu tới? Người đánh cá kể lể đầu đuôi. Họ bèn mời
về nhà, bày rượu thịt ra thết đãi. Người trong xóm hay tin đều đến hỏi thăm. Họ
bảo tổ tiên của họ trốn loạn đời Tần Thủy Hoàng, dắt vợ con và người trong ấp
đến chỗ hiểm trở xa xôi nầy, rồi không trở ra nữa. Từ đó cách biệt hẳn với
người ngoài. Họ hỏi người đánh cá bây giờ là đời nào? Vì họ không biết có đời
Hán nữa, đến chi đời Ngụy, đời Tấn.
Người đánh cá kể lại đủ cả
sự tình. Họ nghe nói đều đau xót. Người đánh cá ở chơi vài ngày rồi từ tạ trở
về. Trong bọn họ có người dặn đừng kể lại cho người khác biết.
Người đánh cá ra khỏi
hang, trở lại đường cũ, tìm thấy chiếc thuyền, chèo thuyền trở về, đi tới đâu
làm dấu chỗ đó, để sau còn biết đường trở lại. Về đến Quận, người đánh cá kể
lại hết các việc cho quan Thái Thú nghe. Viên Thái Thú sai anh ta chèo thuyền
trở lại, tìm theo chỗ làm dấu mà đi, nhưng các dấu tích đã biến mất, không tìm
được đường cũ.
Ông Lưu Tử Kỳ ở đất Nam
Dương tỉnh Hà Nam là bậc cao sĩ, nghe kể chuyện, cảm thấy rất hân hoan, tự mình
đi tìm nơi đó, nhưng chưa tìm ra thì bị bịnh chết. Từ đó không ai hỏi thăm
đường đi nữa.
Từ điển tích nầy, trong
văn chương thường dùng các từ ngữ: Ðào nguyên, Nguồn đào, Ðộng đào, là để chỉ
cảnh Tiên, nơi đó phong cảnh tuyệt đẹp và người sống rất sung sướng.
Câu 6: "Những nhớ khi
Hớn rước Diêu Trì."
Hớn rước Diêu Trì: Vua Hớn
Võ Ðế rước Ðức Diêu Trì Kim Mẫu giáng trần nơi Hoa Ðiện.
Ðiển tích: Vua Hớn Võ Ðế
hay Hán Vũ Ðế (141-87 trước Tây lịch) là vị vua thứ 5 của nhà Hán, kể từ Hán
Cao Tổ Lưu Bang. Hớn Võ Ðế là vị vua hùng tài đại lược, nhưng cũng rất tín
ngưỡng Trời Phật. Khi Hớn Võ Ðế mới lên ngôi, Ngài liền phát nguyện lập một
cảnh chùa gọi là Hoa Ðiện để sùng bái Trời Phật. Gọi là Hoa Ðiện vì chùa nầy
được chạm khắc các thứ Hoa trên các vật liệu xây dựng, nên thoạt trông vào như
một tòa cung điện làm bằng hoa.
Ðến năm Hớn Võ Ðế 61 tuổi,
Ngài định tổ chức một lễ đáo tuế long trọng. Cái sở nguyện của Ngài là cầu Ðức
Phật Mẫu đến chứng lễ. Vua bèn lập bàn hương án nơi sân Hoa Ðiện, thành tâm cầu
khẩn ngày đêm mà không biết Ðức Phật Mẫu ở nơi nào và có thấu biết chăng.
Khi đó, Ông Ðông Phương
Sóc là vị Tiên mới đắc đạo, trước kia có làm quan tại triều vua Hớn Võ Ðế, sau
về núi tu luyện, phát động tâm, liền hiểu rõ mọi việc. Ông bèn đi xuống núi, thẳng
vào triều, gặp Võ Ðế. Nhà vua thuật lại ý nguyện và nhờ Ðông Phương Sóc đi
thỉnh Ðức Phật Mẫu.
Ðông Phương Sóc tâu rằng:
Nếu Bệ hạ quyết lòng thì thần xin phụng mạng, nhưng thỉnh Phật Mẫu được hay
không là do lòng thành của Bệ hạ. Vậy Bệ hạ ra chiếu cho thần đi.
Ðông Phương Sóc lãnh chiếu
ra đi. Dùng huyền diệu Tiên gia, trong chốc lát, Sóc đến DTC xin vào bái kiến
Phật Mẫu, và bạch hết các việc của Hớn Võ Ðế sở vọng khẩn cầu.
Ðức Phật Mẫu phán rằng:
Phật Mẫu sẽ giáng phàm chứng lễ Khánh thọ của Hớn Võ Ðế, đem theo 4 vị Tiên
đồng Nữ nhạc đờn ngâm bài chúc thọ, và ban cho vua 4 trái Ðào Tiên. Khi Phật
Mẫu đến có chim Thanh loan báo trước.
Ðông Phương Sóc vô cùng
mừng rỡ, liền bái tạ Ðức Phật Mẫu rồi trở lại trần gian, tâu bày các việc cho
Võ Ðế rõ.
Nhà vua rất vui mừng, hỏi:
- Thanh loan là chim gì?
Ðông Phương Sóc đáp: -
Thanh loan là con chim loan màu xanh, đó là chim lịnh của Ðức Phật Mẫu, dùng để
đưa Phật Mẫu đi du hành các nơi. Xin Bệ hạ chỉnh trang cho long trọng, thanh
tịnh, để nghinh tiếp Ðức Phật Mẫu vào đêm Trung thu. Trong và ngoài Hoa Ðiện
phải lập bàn hương án trang nghiêm, đều có xông hương khử trược.
Ðầu giờ Tý đêm Rằm Trung
thu, Hớn Võ Ðế quì trước Hoa Ðiện thành tâm cầu khẩn. Xảy thấy chim Thanh loan
đáp xuống sân chùa, Ðức Phật Mẫu cùng Cửu vị Tiên Nương với 4 Tiên đồng Nữ nhạc
giáng lâm trước Hoa Ðiện. Võ Ðế cung nghinh Ðức Phật Mẫu vào Chánh điện. Phật
Mẫu dạy Tiên đồng trao tặng Võ Ðế 4 trái Ðào Tiên và ngâm bài Chúc thọ.
Sau buổi đó, Hớn Võ Ðế cho
tạc hình Ðức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương để thờ nơi Hoa Ðiện.
Sự tích nầy truyền lại đến
ngày nay. Do đó nơi thờ Ðức Phật Mẫu thì gọi là Ðiện, chớ không gọi Ðền.
C.5-6: "Mãi nhớ chuyện Ðộng đào thuở trước, và
chuyện vua Hớn Võ Ðế rước Ðức Phật Mẫu tại Hoa Ðiện."
Câu 7-8: "Găn-Ta-Ca đỡ
bước đi,"
"Ra thành Phật Tổ gặp kỳ ly cung."
Găn-Ta-Ca: còn viết là Căn-Ta-Ca, do phiên âm
từ tiếng Phạn: Kantaka, Hán văn dịch là Càn-Trắc mã, nghĩa là con ngựa Càn
Trắc. Ðây là con ngựa chạy hay nhứt của triều vua Tịnh Phạn, dành riêng cho
Thái Tử Sĩ-Ðạt-Ta dùng. Chính con ngựa nầy đã đưa Thái Tử vượt Hoàng thành lúc
nửa đêm để đi vào chỗ rừng núi thanh vắng tu hành.
Phật giáo sử chép rằng: Thái Tử Sĩ-Ðạt-Ta, năm
29 tuổi, đêm mùng 7 tháng 2, gọi quan hầu cận là Xa-Nặc (TChanna) thắng yên cương ngựa Càn Trắc
để Thái Tử rời Hoàng cung xuất gia đi tu. Thái Tử cùng với Xa-Nặc cỡi ngựa đi
suốt đêm, đến sáng tới một cụm rừng cách Kinh đô Ca-Tỳ-La-Vệ rất xa. Ngài nhảy
xuống ngựa và khen rằng: "Con ngựa nầy rất hay, nó mạnh mẽ và chạy mau như
một vị Thiên Thần." Rồi Ngài cắt tóc, đổi áo, bảo Xa-Nặc dắt ngựa Càn Trắc
về triều tâu lại với vua cha là Tịnh Phạn Vương.
Ngựa Càn Trắc trở về Hoàng
cung, nhớ chủ, bỏ ăn rồi chết. Linh hồn liền thoát lên cõi Thượng Thiên.
Phật Tổ: Thái Tử Sĩ-Ðạt-Ta
tu thành Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni, mở ra Phật giáo và làm Tổ Sư Phật giáo.
Ly cung: Rời khỏi Hoàng
cung.
C.7-8: "Nhắc
lại sự tích Thái Tử Sĩ-Ðạt-Ta cỡi ngựa Càn Trắc, rời Hoàng cung, vượt Hoàng
Thành, vào rừng đi tu thành Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni, mở ra Phật giáo và
làm Tổ Sư Phật giáo."
Câu 9-10: "Dẩy xe trâu
Côn Lôn trổi bánh,"
"Lý
Lão Quân mong lánh phong trần."
Dẩy: Cất
lên, khởi lên. Xe trâu: Chiếc xe trắng có con trâu xanh một sừng (Thanh ngưu) kéo đi. Ðây là
chiếc xe của Ðức Lão Tử dùng để du hành các nơi. Người đánh xe là Từ Giáp. Côn
Lôn: Tên một ngọn núi rất cao, ở về phía Tây nước Tàu, tương truyền trên núi có
Tiên ở.
Trổi bánh: Bánh xe khởi
lên để lăn tới.
Lý Lão Quân: Ðức Lão Tử họ
Lý, tên là Nhĩ, tự là Bá Ðương. Ðức Lão Tử là hóa thân của Ðức Thái Thượng Ðạo
Quân nên về sau được gọi là Thái Thượng Lão Quân.
Phong trần: Gió bụi, chỉ
những cảnh gian nan vất vả nơi cõi trần.
C.9-10: "Nhắc lại sự tích Ðức Lão Tử, sau khi ở
ải Hàm Cốc truyền đạo cho Ông Doãn Hỷ, Ngài lên xe trắng trâu xanh, có Từ Giáp
đánh xe, đi về phía Tây đến núi Côn Lôn, lánh khỏi cõi trần đầy gíó bụi." (Xem:
C.12 TG)
Câu 11-12: "Núi Ô-Li-Vê
để dấu chân,"
"Gia-Tô Giáo chủ giải phần hữu sanh."
Núi Ô-Li-Vê: Tiếng Pháp
là: Mont des Oliviers (núi Oliviers), phiên âm ra: Ô-Li-Vê. Ðây là một ngọn núi
thấp ở ngoại ô thành Jérusalem nước Do Thái. Ðức Chúa Jésus cùng 12 vị Tông đồ
thường lên núi nầy cầu nguyện. Tại đây, Ðức Chúa dự ngôn về thành Jérusalem bị
tàn phá, về cái chết và sự phục sinh của Ngài. Trước khi Ðức Chúa Jésus bị bắt
và bị hành hình, Ngài lên núi nầy cầu nguyện Thượng Ðế, xin lấy cái chết của mình
để chuộc tội cho loài người.
Ðể dấu chân: Còn lưu lại
cái dấu chân.
Gia-Tô Giáo chủ: Ðức Chúa
Jésus (phiên âm Gia-Tô) mở ra Thiên Chúa giáo và làm Giáo chủ tôn giáo ấy.
Giải phần hữu sanh: Giải
là nói rõ ra, phần là một phần trong tổng thể, hữu là có, sanh là sống. Giải
phần hữu sanh là giải quyết phần đời sống của nhơn loại, tức là giải quyết về
phần Nhơn đạo hay Thế đạo.
Giáo lý của Thiên Chúa
giáo chủ yếu về phần Thể pháp và Bí pháp của Thế đạo, cho nên người tu theo Ðạo
Thiên Chúa đạt phẩm vị cao nhất là Thánh, và Ðạo Thiên Chúa thuộc về Thánh đạo
trong Ngũ Chi Ðại Ðạo.
C.11-12: "Ðức Chúa Jésus, Giáo chủ Thiên Chúa
giáo, từng đặt chân lên núi Oliviers để cầu nguyện xin chuộc tội cho nhơn loại.
Ngài là Ðấng giải quyết về phần đời sống của nhơn loại nên nhơn loại tôn Ngài
là Ðấng Cứu Thế."
Câu 13-14: "Con nguyện
xin khuôn linh giúp sức,"
"Bước Ta-bà giục thức huệ quang."
Khuôn linh: Khuôn là dụng
cụ để đúc ra các vật có hình thể giống hệt nhau, Linh là thiêng liêng. Khuôn
linh là chỉ Ðấng Tạo Hóa, tức là Ðức Chí Tôn. Khuôn linh đồng nghĩa với: Khuôn
thiêng, Khuôn hồng, Hồng Quân.
Ta-bà: do phiên âm từ
tiếng Phạn: Saha, nghĩa là nhẫn nhục. Cõi Ta-bà là cõi mà người tu phải nhẫn
nhục, vì cõi nầy có nhiều ô trược và ác độc, nhưng nếu tu được thì rất mau
thành chánh quả. Cõi Ta-bà chính là cõi trần .
Bước Ta-bà: Bước đi cùng
khắp trên cõi trần .
Giục thức: Thúc giục cho
thức tỉnh.
Huệ quang: Ánh sáng của
trí huệ. Trí huệ là sự thông suốt hiểu biết rốt ráo các sự việc của bậc đắc
đạo.
C.13-14: "Con nguyên xin Ðức Chí Tôn giúp sức
cho con đi khắp các nẻo đường trần để thúc giục nhơn sanh thức tỉnh, khơi dậy
cái trí huệ của nhơn sanh."
Câu 15-16: "Lòn thân dưới
phép sầu than,"
"Tìm phương cứu khổ mở đàng giải căn."
Lòn thân: Ðem thân lòn
cúi, ý nói hạ mình chịu nhục.
Phép sầu than: Pháp luật
hà khắc của đời làm cho dân chúng sầu khổ kêu than.
Giải căn: Giải là cởi bỏ
ra, căn là gốc rễ, chĩ những việc làm gian ác tạo thành oan nghiệt của kiếp
trước. Giải căn là cởi bỏ hết các oan nghiệt của kiếp trước, vì nó tạo thành
nghiệp ác làm cho kiếp sống nầy phải bị tai ương, phiền não.
C.15-16: "Hạ mình lòn cúi dưới pháp luật hà khắc
của đời để tìm ra phương pháp cứu khổ nhơn sanh, và mở ra con đường đạo đức để
giải trừ oan nghiệt cho nhơn sanh."
[ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ] [ 8 ] [ 9 ] [ 10 ] [ 11 ] [ 12 ] [ 13 ] [ 14 ] [ 15 ] [ 16 ] [ 17 ] [ 18 ] [ 19 ] [ 20 ] [ 21 ] [ 22 ] [ 23 ] [ 24 ] [ 25 ] [ 26 ] [ 27 ] [ 28 ] [ 29 ] [ 30 ] [ 31 ] [ 32 ] [ 33 ] [ 34 ] [ 35 ] [ 36 ] [ 37 ] [ 38 ] [ 39 ] [ 40 ] [ 41 ] [ 42 ] [ 43 ] [ 44 ] [ 45 ] [ 46 ] [ 47 ] [ 48 ] [ 49 ] [ 50 ] [ 51 ] [ 52 ] [ 53 ] [ 54 ] [ 55 ] [ 56 ] [ 57 ] [ 58 ] [ 59 ] [ 60 ] [ 61 ] [ 62 ] [ 63 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét