
GIỚI TÂM KINH (Giọng
Nam xuân)
1. "Vọng Thượng
Ðế chứng lòng thành tín,
2. Chúng
sanh đồng bái kỉnh khẩn nguyền.
3. Nguyền
cho trăm họ bình yên,
4. Nhà nhà no ấm khỏi phiền khỏi than.
5. Nguyền Khổng Thánh bảo toàn Nho giáo,
7. Tây phương
Phật Tổ, Di-Ðà,
8. Nam Hải Phổ Ðà có Phật Quan Âm.
9. Lẽ báo ứng cao thâm huyền diệu,
10. Cho chúng sanh đặng hiểu răn mình.
11. Ðạo Quân đức hóa háo sinh,
12. Rộng quyền máy nhiệm an linh cứu đời.
13. Xin xót thương con người ngây dại,
14. Phép huyền hư truyền dạy thế gian.
15. Mong nhờ lịnh Ðức Thánh Quan,
16. Ra oai tiêu diệt cho tàn ác ma.
17. Trường
Canh chói rạng lòa Kim
Khuyết,
18. Xin ban ơn
giải nghiệt cho đời.
19. Tề Thiên Ðại Thánh để lời,
20. Thiện nam, Tín nữ nghe thời phải vưng.
21. Chớ tự phụ, cũng đừng khi ngạo,
22. Lẽ Trời hằng quả báo chẳng sai.
23. Lời khuyên già trẻ gái trai,
24. Khá tua sửa nết, ăn chay làm lành.
25. Ðấng Tạo Hóa hóa sanh muôn vật,
26. Phú cho người tánh rất linh thông.
27. Ðặt ra có họ có dòng,
28. Vua, Thầy, cha mẹ, vợ chồng, cháu con.
29. Tình huynh đệ tày non tợ biển,
30. Nghĩa hữu bằng phải kiếng phải tin.
31. Cang tam Thường ngũ phải gìn,
32. Chứa đức làm lành, làm phước, làm doan.
33. Gặp người đói rách khốn nàn,
34. Ra tay chẩn cứu cho toàn nghĩa nhân.
35. Mựa chớ ham giọng đờn tiếng quyển,
36. Thói dâm phong rù quến nguyệt hoa.
37. Có ngày hư nát cửa nhà,
38. Xa gần đồn tiếng thúi tha vô cùng.
39. Trường đổ bác cũng đừng léo tới,
40. Phường trăng hoa hát bội khá từ.
41. Những điều nhơ nhuốc phải chừa,
42. Hỗn hào mắng nhiếc, nói thừa nói thêm.
43. Nơi Ðịa ngục gông kềm sẵn đủ,
44. Ðể răn loài dâm phụ gian phu.
45. Ai ai bền chí mà tu,
46. Phước
đem đổi tội cho phu dễ gì?"
Có thơ rằng:
47.
Dễ gì lộn kiếp đặng làm người,
May đặng làm người chớ dể duôi.
Lành dữ hai đường vừa ý chọn,
Lành như tòng, dữ tợ hoa tươi.
51.
Hoa tươi, tòng bá khác nhau xa,
Tòng bá xơ rơ kém sắc hoa.
Gặp tiết đông Thiên sương tuyết bủa,
Chỉ còn tòng bá, chẳng còn hoa.
55.
Còn hoa mà lại ích chi đâu,
Ðẹp dáng tươi màu đặng mấy lâu?
Thử sánh ngọn đèn cùng bóng nguyệt,
Gió day đèn tắt, nguyệt làu làu.
59.
Làu làu một tấm tợ đài gương,
Trung hiếu, tiết trinh vẹn mọi đường.
Sang cả mặc người đừng bợ đỡ,
Hoạnh tài, trơ mắt khỏi tai ương.
63.
Tai ương hoạn họa luống ưu sầu,
Vì bởi hay bày chước hiểm sâu.
Lập kế đồ mưu âm hại chúng,
Kiếp sau mang lấy lốt heo trâu.
67.
Heo trâu thân thể mạt hèn thay,
Mãn kiếp lại còn bị xẻ thây.
Lộng lộng lưới Trời tuy sếu sáo,
Thưa mà chẳng lọt mảy lông mày.
71.
Mày râu đứng giữa cõi trần gian,
Gắng sức chống cho vững miếu đàng.
Phận gái Tam Tùng cùng Tứ Ðức,
Tề gia, nội trợ vẹn là ngoan.
75.
Ngoan ngùy chơn chánh Phật Thần thương,
Chơn chánh liên hòa với thiện lương.
Thần Thánh thành do người chánh thiện,
Thiện lương chơn chánh đức không lường.
79.
Không lường kẻ thiện với người hung,
Bợ đỡ giàu sang, phụ khốn cùng.
Ngoài mặt giả tuồng người trượng nghĩa,
Trong lòng dối kết
chút tình chung.
83.
Tình chung đặng cậy thế người sang,
Mượn tiếng khua môi với xóm làng.
Lời dạy Thần Tiên không kể đến,
Ðạo mầu chẳng cứ, cứ khoe khoang.
GIẢI NGHĨA
Bài Giới Tâm
Kinh do các Ðấng Thiêng liêng giáng cơ ban cho chi Minh Tân, một trong Năm chi Minh Ðạo. Hội
Thánh đến thỉnh bài kinh nầy về làm kinh ÐÐTKPÐ.
Giới Tâm
kinh: Giới là răn cấm, Tâm là lòng dạ. Giới Tâm Kinh là bài kinh có nội dung
dạy người sửa tánh răn lòng.
Câu 1-2: "Vọng Thượng Ðế chứng
lòng thành tín,"
"Chúng sanh đồng bái kỉnh
khẩn nguyền."
Vọng: Trông
ngóng. Bái kỉnh: Lạy với lòng kính trọng.
Khẩn nguyền:
Tha thiết mong ước cầu xin.
C.1-2: "Trông mong Ðức Chí Tôn chứng lòng
thành thật tín ngưỡng. Chúng sanh đồng kính lạy và tha thiết cầu xin."
Câu 3-4: "Nguyền cho trăm họ bình yên,"
"Nhà nhà no ấm khỏi phiền
khỏi than."
Cầu xin cho
dân chúng (Bá tánh) được bình yên, mọi nhà đều được no ấm, không còn phiền não,
không còn than van.
Câu 5-6: "Nguyền Khổng Thánh bảo toàn Nho giáo,"
"Lấy nghĩa nhân Ðại Ðạo
truyền ra."
Nghĩa nhân:
Nhân là tình thương yêu rộng lớn, Nghĩa là việc làm chánh đáng theo lẽ phải. Nhân là nơi
yên ổn của con người, Nghĩa là con đường chánh của con người. Ở thì theo đạo
Nhân, làm thì noi theo đường Nghĩa.
Ðại Ðạo: ÐÐTKPÐ tức Ðạo
Cao Ðài, chủ trương Nho Tông Chuyển Thế, lấy tinh hoa giáo lý Nho giáo để khuyến
dạy nhơn sanh, làm cho đời trở nên thuần lương đạo đức.
C.3-4: "Cầu xin Ðức Khổng Thánh bảo toàn Nho
giáo. Ðạo Cao Ðài với chủ trương Nho Tông Chuyển Thế, lấy 2 điều căn bản Nhân
và Nghĩa của Nho giáo truyền rộng ra."
Câu 7-8: "Tây phương Phật Tổ, Di-Ðà,"
"Nam Hải Phổ Ðà
có Phật Quan Âm."
Phật Tổ: Ðức Phật Thích Ca
là Tổ sư của Phật giáo.
Di-Ðà: Ðức Phật A-Di-Ðà. Nam Hải Phổ Ðà: Núi Phổ
Ðà ở biển Nam Hải cõi TL, là nơi Công Chúa Diệu Thiện đắc đạo thành Phật hiệu là
Quan Thế Âm.
C.7-8: "Nơi CLTG, có Ðức Phật Thích Ca và Ðức
A-Di-Ðà Phật. Nơi Phổ Ðà Sơn biển Nam Hải có Ðức Phật Quan Âm."
Câu 9-10: "Lẽ báo ứng
cao thâm huyền diệu,"
"Cho chúng sanh đặng hiểu răn mình."
Báo ứng: Ứng hiện ra để
báo đáp những điều đã làm thuở trước, đúng theo Luật Nhân quả. Cao thâm: Cao
sâu.
C.9-10: "Lẽ báo ứng của Trời Ðất rất cao sâu
huyền diệu, để cho chúng sanh hiểu rõ mà răn mình."
Câu 11-12: "Ðạo Quân đức
hóa háo sinh,"
"Rộng quyền máy nhiệm an linh cứu đời."
Ðạo Quân: Ðức Thái Thượng
Ðạo Quân. Ðức hóa: Dùng đức mà cảm hóa lòng người. Háo sinh: Ưa thích sự sống.
Máy nhiệm: Máy Trời mầu nhiệm. An linh: An ổn TL.
C.11-12: "Ðức Thái Thượng Ðạo Quân dùng đức cảm
hóa nhơn sanh, hạp tánh háo sanh của Thượng Ðế, nắm giữ Máy Trời mầu nhiệm, an
ổn TL, rộng quyền cứu giúp nhơn sanh."
Câu 13-14: "Xin xót
thương con người ngây dại,"
"Phép huyền hư truyền dạy thế gian."
Huyền hư: Huyền là huyền
diệu, Hư là trống không, hư vô. Phép Huyền hư: Phương pháp luyện đạo huyền
diệu, luyện cho đến chỗ huờn hư thì đắc đạo.
C.13-14: "Xin xót thương con người còn khờ dại,
xin truyền dạy Phép luyện đạo huyền diệu để luyện cho Chơn thần đến chỗ huờn hư
đắc đạo."
Câu 15-16: "Mong nhờ lịnh
Ðức Thánh Quan,"
"Ra oai tiêu diệt cho tàn ác ma."
Cho tàn: Cho
hết sạch. Tàn là hết. Ác ma: Ma
quỉ ác độc.
C.15-16: "Mong
nhờ Ðức Quan Thánh Ðế Quân ra oai tiêu diệt cho hết sạch lũ quỉ ma độc ác hại
người."
Câu 17-18: "Trường Canh chói rạng lòa Kim Khuyết,"
"Xin ban ơn giải nghiệt cho đời."
Trường Canh: Sao Trường
Canh là sao Thái Bạch, thường gọi là Thái Bạch Kim Tinh. Ðấng ấy hiện nay là
một vị Ðại Tiên Trưởng lãnh nhiệm vụ Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm nhiệm Giáo Tông
ÐÐTKPÐ. Kim Khuyết: Huỳnh Kim Khuyết, là nơi họp Triều đình của Ðức Chí Tôn.
Giải nghiệt: Giải là cởi
bỏ ra, Nghiệt là nghiệp ác. Giải nghiệt là cởi bỏ nghiệp ác.
C.17-18: "Sao Thái Bạch chiếu sáng Huỳnh Kim
Khuyết, ý nói: Ðức Lý Thái Bạch vào Huỳnh Kim Khuyết chầu Ðức Chí Tôn, xin Ðức
Chí Tôn ban ơn cởi bỏ hết các ác nghiệp cho đời."
Câu 19-20: "Tề Thiên Ðại
Thánh để lời,"
"Thiện nam, Tín nữ nghe thời phải vưng."
Tề Thiên Ðại Thánh để lời
bảo các tín đồ Nam Nữ, hãy nghe lời dạy bảo và phải vâng theo.
Câu 21-22: "Chớ tự phụ,
cũng đừng khi ngạo,"
"Lẽ Trời hằng quả báo chẳng sai."
Khi ngạo: Khinh rẻ, ngạo
mạn, đồng nghĩa Khinh ngạo.
Quả báo: Cái kết quả báo
đáp lại. Những việc làm trong kiếp trước là Nhân, tạo ra Nghiệp, để báo đáp lại
bằng sự hạnh phúc hay đau khổ trong kiếp nầy gọi là Quả. Ðây là Luật Nhân Quả
thể hiện sự công bình của Trời Ðất.
C.21-22: "Chớ nên tự phụ, cũng đừng khinh rẻ
ngược ngạo. Luật Trời hằng sắp đặt việc quả báo chẳng hề sai chạy."
KHẢO DỊ:
- Kinh TÐ-TÐ 1936, 1968: khi ngạo.
- Kinh Lễ, Kinh TÐ-TÐ 1974, 1975: khinh ngạo.
Câu 23-24: "Lời khuyên
già trẻ gái trai,"
"Khá tua sửa nết, ăn chay làm lành."
Khá: Nên. Tua: Phải. Khá tua
là phải nên.
C.23-24: "Lời khuyên cho tất cả Nam, Nữ, già,
trẻ, phải nên sửa đổi tánh nết cho tốt đẹp, phải ăn chay và làm lành."
Câu 25-26: "Ðấng Tạo Hóa
hóa sanh muôn vật,"
"Phú cho người tánh rất linh thông."
Phú cho: Ban cho. Linh:
TL. Thông: Hiểu biết rõ.
C.25-26: "Ðấng Thượng Ðế sanh ra vạn vật, ban
cho con người một cái tánh rất thiêng liêng và hiểu biết rõ."
Ðó là nhờ điểm Linh quang
của Ðức Chí Tôn ban cho, nên con người linh thông hơn vạn vật, đứng vào bực
trên chúng sanh, nên gọi là Thượng đẳng chúng sanh.
Câu 27-28: "Ðặt ra có họ
có dòng,"
"Vua, Thầy, cha mẹ, vợ chồng, cháu con."
Ðặt ra cho mỗi người có
dòng họ tổ tiên, có Vua, có Thầy, có Cha mẹ, có vợ chồng, có con cháu.
Câu 29-30: "Tình huynh đệ
tày non tợ biển,"
"Nghĩa hữu bằng phải kiếng phải tin."
Tày: Bằng, sánh bằng. Tợ:
Giống như. Nghĩa: Cách cư xử đúng lẽ phải. Hữu bằng: Bè bạn. Kiếng: Kính trọng.
C.29-30: "Tình thương
yêu giữa anh em ruột thịt nặng như núi, sâu như biển. Cái nghĩa giữa bạn bè là
phải kính trọng nhau, tin cậy nhau."
Câu 31-32: "Cang tam
Thường ngũ phải gìn,"
"Chứa đức làm lành, làm phước, làm doan."
Cang tam: Tam cang, dịch
là Ba giềng. Tam cang gồm: Quân thần cang, Phụ tử cang, Phu thê cang. Thường
ngũ: Ngũ thường, dịch là Năm hằng. Ngũ thường gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
Làm doan: Làm duyên, là làm những việc thiện để tạo duyên lành, hưởng phước về
sau.
C.31-32: "Phải gìn giữ Tam cang và Ngũ thường.
Muốn chứa đức thì phải làm lành, làm phước, làm duyên."
Câu 33-34: "Gặp người đói
rách khốn nàn,"
"Ra tay chẩn cứu cho toàn nghĩa nhân."
Chẩn cứu: Chẩn là giúp đỡ
bằng cách đem vật thực đến cho. Chẩn cứu là cứu giúp, đem tiền bạc, thực phẩm,
thuốc men, quần áo đến phát cho người đang bị hoạn nạn.
C.33-34: "Khi gặp người
đói rách đang hoạn nạn khổ sở, phải ra tay chẩn cứu, mới trọn vẹn 2 chữ nhân
nghĩa."
Câu 35-36: "Mựa chớ ham
giọng đờn tiếng quyển,"
"Thói dâm phong rù quến nguyệt hoa."
Mựa: Chớ, tiếng dùng với ý
cản ngăn.
Tiếng quyển: Tiếng sáo.
Giọng đờn tiếng quyển: Tiếng đàn tiếng sáo du dương khiến người ta mê theo. Ý
nói: Lời nói ngon ngọt của phụ nữ đẹp dụ dỗ vào đường tình ái bất chánh. Dâm
phong: Thói quen ham mê thú vui xác thịt nam nữ. Phong là thói quen lâu đời.
Nguyệt hoa: Trăng hoa. Do
câu: Nguyệt hạ hoa tiền: Dưới trăng trước hoa, ý nói: việc lén lút tình tự lãng
mạn giữa trai gái hẹn hò ngắm trăng xem hoa. Ðó là tình yêu lãng mạn vượt ra
ngoài lễ giáo, bị người xưa ngăn cấm.
C.35-36: "Chớ có ham mê theo lời ngon ngọt,
quyến rũ vào thói ăn chơi dâm đảng, đi vào các cuộc tình ái lãng mạn."
Câu 37-38: "Có ngày hư
nát cửa nhà,"
"Xa gần đồn tiếng thúi tha vô cùng."
Có ngày phải bị hư nhà nát
cửa, tiếng xấu đồn vang, xa gần đều biết, thật là thúi tha hổ thẹn vô cùng.
Câu 39-40: "Trường đổ bác
cũng đừng léo tới,"
"Phường trăng hoa hát bội khá từ."
Trường: Nơi tụ tập nhiều
người. Ðổ bác: Ðánh bài bạc ăn tiền. Trường đổ bác: Sòng bài, nơi tổ chức cờ
bạc. Léo: Bén mảng tới gần. Phường: Ðám, bọn. Hát bội: Hát diễn các truyện xưa
tích cũ, chỉ việc đờn ca xướng hát. Thời xưa cho rằng, người theo đờn ca xướng
hát đều lãng mạn phóng túng, không giữ được nền nếp Nho phong. Khá từ: Nên từ
bỏ.
C.39-40: "Ðừng bén mảng tới những nơi cờ bạc.
Nên từ bỏ đám trai gái trăng hoa lãng mạn và bọn đờn ca xướng hát."
Câu 41-42: "Những điều
nhơ nhuốc phải chừa,"
"Hỗn hào mắng nhiếc, nói thừa nói thêm."
Nhơ nhuốc: Xấu xa nhục
nhã. Hỗn hào: Có lời nói hay cử chỉ vô lễ, láo xược, khi dể người trên.
C.41-42: "Phải chừa những điều xấu xa nhục nhã,
không được hỗn hào mắng nhiếc người trên, không được nói thêm nói bớt cho sai
sự thật."
Câu 43-44: "Nơi Ðịa ngục
gông kềm sẵn đủ,"
"Ðể răn loài dâm phụ gian phu."
Dâm phụ: Người đàn bà dâm
đảng lấy chồng người.
Gian phu: Người đàn ông tà
dâm lấy vợ người.
C.43-44: "Nơi Ðịa ngục, có sẵn hai hình cụ là:
Gông và Kềm, để trừng trị những kẻ dâm phụ, gian phu."
Câu 45-46: "Ai
ai bền chí mà tu,"
"Phước đem đổi tội cho phu dễ gì?"
Phước: Phước đức. Phu: Ðủ, thỏa. Cho phu: Cho đủ.
C.45-46: "Mọi
người nên bền chí tu hành. Ðem phước đức mà đổi lấy
tội tình cho vừa đủ cũng không phải là chuyện dễ dàng gì!"
Câu 47-48: "Dễ gì lộn kiếp đặng làm người, "
"May đặng làm
người chớ dể duôi."
Lộn kiếp: Quay trở lại cõi
trần để đầu thai lên một kiếp sống khác. Dể duôi: Khinh rẻ, coi thường.
C.47-48: "Trở lại đầu thai làm một con người nơi
cõi trần, không phải là điều dễ dàng. Ðó là một điều may mắn, chớ nên coi
thường."
Bởi vì theo Luật Tiến hóa,
từ loài Thú cầm, tiến hóa lên phẩm Người phải trải qua muôn ngàn kiếp, kéo dài
không biết bao nhiêu năm mà kể. Cho nên làm được một con Người thì thật là quí
báu. Người là loài Thượng đẳng chúng sanh, có tánh linh hơn vạn vật nên mới có
thể tu thành Tiên, Phật.
Câu 49-50: "Lành dữ hai
đường vừa ý chọn,"
"Lành như tòng, dữ tợ hoa tươi."
Tòng: Cây tùng, cây thông.
Ðây là loại cây sống rất lâu năm, chịu được sương tuyết, lá vẫn xanh tươi, thân
mọc thẳng đứng, nên được ví với người quân tử.
C.49-50: "Con người có lý trí suy nghĩ, nên có 2
con đường: lành và dữ, mà tùy ý chọn lựa. Con đường lành thì bền bỉ như cây
tòng; con đường dữ chóng tàn như cái hoa tươi."
Câu 51-52: "Hoa tươi,
tòng bá khác nhau xa, "
"Tòng bá xơ rơ kém sắc hoa."
Tòng bá: Cây tùng và cây
bá. Cây bá, cũng còn gọi là cây trắc, giống như cây tùng, sống rất lâu năm và
chịu được sương tuyết, lá vẫn xanh tươi, trong lúc các cây khác thì bị rụng lá
trơ trụi. Xơ rơ: Lơ thơ, cành lá thưa thớt.
C.51-52: "Ðoá hoa tươi và cây tòng cây bá khác
nhau xa: tòng bá thì xơ rơ, hoa tươi thì màu sắc rực rỡ."
Câu 53-54: "Gặp tiết đông
Thiên sương tuyết bủa,"
"Chỉ còn tòng bá, chẳng còn hoa."
Tiết đông Thiên: Tiết trời
mùa đông, có tuyết rơi rất lạnh lẽo. Tiết là thời gian tương ứng với một đặc
trưng về khí hậu. Bủa: Giăng, bao phủ khắp bầu Trời.
C.53-54: "Gặp tiết trời mùa đông, có sương và
tuyết bao phủ, cây tòng cây bá thì đứng trơ trơ vững vàng, còn hoa kia thì rơi
rụng vì chịu không nổi sương tuyết."
Câu 55-56: "Còn hoa mà
lại ích chi đâu,"
"Ðẹp dáng tươi màu đặng mấy lâu?"
Nếu đóa hoa còn thì có ích
lợi gì đâu?
Hình dáng và màu hoa tươi
đẹp, nhưng kéo dài được bao lâu?
Người hung ác thì như cánh
hoa kia vậy. Lúc đắc thời thì như hoa tươi thắm, nhưng tồn tại được bao lâu?
Câu 57-58: "Thử sánh ngọn
đèn cùng bóng nguyệt,"
"Gió day đèn tắt, nguyệt làu làu."
Gió day: Gió thổi trở qua
hướng khác.
Nguyệt làu làu: Trăng sáng
vằng vặc.
C.57-58: "Thử so sánh ngọn đèn với ánh sáng của mặt
trăng, khi gió thổi qua hướng khác thì đèn tắt, còn ánh trăng vẫn sáng vằng
vặc."
KHẢO
DỊ:
-
Kinh TÐ-TÐ 1936, Kinh Lễ: Gió day.
-
Kinh TÐ-TÐ 1968, 1974, 1975: Gió lay.
Gió lay: Gió lay động. Lay động là chuyển động nhẹ nhàng qua lại ở một vị
trí nhứt định.
Câu 59-60: "Làu làu một
tấm tợ đài gương,"
"Trung hiếu, tiết trinh vẹn mọi đường."
Ðài gương: Cái giá gỗ trên
đó có đặt một tấm kiếng để làm gương soi. Gương làu làu: Cái gương được lau
thật sạch, không một tí bụi bám vào.
C.59-60: "Như một tấm gương soi thật trong sáng,
Nam thì trung hiếu, Nữ thì tiết trinh, giữ cho được vẹn toàn mọi bề."
Câu 61-62: "Sang cả mặc
người đừng bợ đỡ,"
"Hoạnh tài, trơ mắt khỏi tai ương."
Sang cả: Sang là quí phái,
cả là lớn. Sang cả là sang trọng lắm. Bợ đỡ: Nịnh hót để cầu lợi. Hoạnh tài:
Hoạnh là không hợp lý, tài là tiền bạc. Hoạnh tài là có được nhiều tiền bạc một
cách không hợp lý, không phải do sức lực của mình làm ra. Thí dụ: Lượm được một
gói vàng,
Trơ mắt: Ðứng yên, lấy mắt
nhìn mà không làm gì cả.
C.61-62: "Người ta giàu có sang trọng thì mặc
người ta, đừng theo nịnh hót bợ đỡ, mình nên giữ lấy phận mình."
Ðồng tiền không do công
sức mình làm ra một cách chánh đáng, chỉ nên lấy mắt ngó mà thôi, đừng chạm
đến, thì khỏi rước lấy tai họa vào thân.
Câu 63-64: "Tai ương hoạn
họa luống ưu sầu, "
"Vì bởi hay bày chước hiểm sâu."
Tai ương: Tai là việc hao
tổn, ương là họa hại. Hoạn họa: Hoạn là mối hại lớn, họa là tai vạ. Tai ương
hoạn họa: Tai nạn làm tổn hại lớn. Luống: Nhiều lần. Ưu sầu: Lo lắng buồn rầu.
Chước: Mưu kế. Hiểm sâu: Nham hiểm và sâu độc.
C.63-64: "Tai ương hoạn nạn gây ra lắm nỗi lo
buồn, là bởi vì hay bày đặt mưu kế nham hiểm sâu độc hại người."
Câu 65-66: "Lập kế đồ mưu
âm hại chúng,"
"Kiếp sau mang lấy lốt heo trâu."
Lập kế đồ mưu: Sắp đặt lập
ra mưu kế. Ðồ là sắp đặt. Âm hại: Hại người một cách ngấm ngầm, không để lộ ra.
Chúng: Nhiều người. Lốt: Hình thức bề ngoài.
C.65-66: "Sắp đặt mưu kế để âm thầm hãm hại
người thì phải mang tội nặng, khi chết rồi, linh hồn phải đầu kiếp trở lại cõi
trần làm thân heo hay trâu mà đền tội."
Câu 67-68: "Heo trâu thân
thể mạt hèn thay,
Mãn kiếp lại còn bị xẻ thây."
Mãn kiếp: Hết kiếp sống,
tức là chết.
Xẻ thây: Thân thể bị làm
thịt, chặt ra nhiều mảnh.
C.67-68: "Mang kiếp làm heo trâu thật là thấp
hèn, khi chết rồi thì thân thể còn bị xẻ ra làm thịt."
Câu 69-70: "Lộng lộng lưới Trời tuy sếu sáo,"
"Thưa mà chẳng lọt mảy lông mày."
Lộng lộng: Cao rộng mênh
mông. Sếu sáo: Lung lay yếu ớt như sắp hư nát. Mảy lông mày: Ý nói một vật rất
nhỏ như một chút lông mày.
C.69-70: "Lưới Trời cao rộng mênh mông, tuy coi
lung lay yếu ớt nhưng một chút nhỏ cũng không qua lọt."
Hai câu kinh nầy có ý
nghĩa tương tợ như câu Hán văn: "Thiên
võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu." Nghĩa là: Lưới Trời lồng lộng, thưa
mà không lọt.
Câu 71-72: "Mày râu đứng
giữa cõi trần gian,"
"Gắng sức chống cho vững miếu đàng."
Mày râu: Dịch chữ Tu mi,
chỉ giới đàn ông con trai.
Miếu đàng: Miếu đường, nơi
thờ phượng tổ tiên dòng họ của nhà vua. Miếu đường thường được xây dựng kế bên
triều đình, nên từ ngữ Miếu đường dùng để chỉ Triều đình của vua, tức là cơ quan
tối cao lãnh đạo quốc gia.
C.71-72: "Phận làm trai đứng giữa cõi trần gian,
phải cố gắng ra sức chống chỏi cho bền vững nước nhà."
Câu 73-74: "Phận gái Tam Tùng cùng Tứ Ðức,"
"Tề gia, nội trợ vẹn là ngoan."
Tam Tùng: Ba điều phải theo
của người phụ nữ, gồm:
Tại gia tùng phụ: Ở tại
nhà thì phải tùng theo cha.
Xuất giá tùng phu: Có chồng
thì phải tùng theo chồng.
Phu tử tùng tử: Chồng chết
thì theo con, tức là ở vậy nuôi con cho khôn lớn và tạo lập sự nghiệp cho con.
Tứ đức: Bốn đức tốt của
người phụ nữ, gồm:
Công: Chăm làm việc nhà:
May vá, nấu ăn, nuôi dạy con.
Dung: Chăm
sóc dung nhan cho tốt đẹp.
Ngôn: Lời
nói dịu dàng, mực thước, ngay thẳng.
Hạnh: Tánh nết hiền hòa,
cử chỉ đoan trang.
Tề gia nội trợ: Sắp đặt
mọi việc trong gia đình cho được an ổn, giúp đỡ bên trong gia đình.
C.73-74: "Phận làm đàn bà con gái thì phải giữ
Tam Tùng và Tứ Ðức. Phải lo việc tề gia nội trợ cho hoàn toàn mới phải là gái
ngoan."
Câu 75-76: "Ngoan ngùy
chơn chánh Phật Thần thương,"
"Chơn chánh liên hòa với thiện lương."
Ngoan ngùy: Ngoan ngoãn
thùy mị, nết na dễ dạy.
Chơn chánh: Chơn thật ngay
thẳng.
Liên hòa: Liên kết và hòa
hợp. Thiện lương: Lành tốt.
C.75-76: "Phật và Thần, nói chung là các Ðấng
Thiêng liêng đều thương mến những người ngoan ngùy, chơn chánh."
Sự chơn chánh phải liên
kết hòa hợp với sự lương thiện.
Câu 77-78: "Thần Thánh
thành do người chánh thiện,"
Thiện lương chơn chánh đức
không lường.
Chánh thiện: Chơn chánh và
lương thiện.
Không lường: Không đo
lường được, ý nói số lượng rất lớn, rất nhiều.
C.77-78: "Người thiện lương chơn chánh mới có
thể đắc thành Thần Thánh. Có thiện lương chơn chánh mới tạo được nhiều phước
đức không lường hết được."
Câu 79-80: "Không lường
kẻ thiện với người hung,"
"Bợ đỡ giàu sang, phụ khốn cùng."
Bợ đỡ: Nịnh hót để cầu
lợi.
Phụ: Ðối xử tệ bạc. Khốn
cùng: Nghèo túng khổ sở.
C.79-80: "Không thể biết rõ được kẻ nào lành, kẻ
nào dữ. Thói thường thì nịnh hót người giàu, phụ bạc kẻ nghèo khổ."
Câu 81-82: "Ngoài mặt giả tuồng người trượng
nghĩa,"
"Trong
lòng dối kết chút tình
chung."
Giả tuồng:
Giả bộ, giả đò, không thật lòng.
Trượng nghĩa: Trọng
nghĩa, xem nặng việc cư xử theo lẽ phải, hợp đạo đức. Dối kết: Liên kết với
nhau một cách dối trá. Tình chung: Tình cảm chung thủy, không thay đổi.
C.81-82: "Bề ngoài thì giả bộ là người trọng
nghĩa, nhưng trong lòng thì dối trá làm như là có tình cảm chung thủy."
Câu 83-84: "Tình chung
đặng cậy thế người sang,"
"Mượn tiếng khua môi với xóm làng."
Cậy thế: Dựa vào thế lực. Người sang: Kẻ giàu sang.
Khua môi: Nói khoác lác
khoe khoang.
C.83-84: "Giả bộ có tình cảm chung thủy đặng dựa
vào thế lực của kẻ sang giàu, mượn đó đặng khoác lác khoe khoang với những
người trong làng trong xóm."
Câu 85-86: "Lời dạy Thần Tiên không kể đến,"
"Ðạo mầu chẳng cứ, cứ khoe khoang."
Lời dạy bảo của các Ðấng
Thần, Tiên thì không kể đến, con đường Ðạo đức mầu nhiệm thì chẳng theo, mà cứ
khoe khoang luôn miệng.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét