TÁN
TỤNG CÔNG ÐỨC DIÊU TRÌ KIM MẪU (Giọng Nam ai)
1. "Kể từ Hỗn Ðộn sơ khai,
2. Chí Tôn hạ chỉ trước Ðài Linh Tiêu.
3. Lưỡng Nghi phân khí Hư Vô,
4. Diêu Trì Kim Mẫu nung lò hóa sanh.
5. Âm Dương biến tạo Chơn thần,
6. Lo cho nhơn vật về phần hữu vi.
7. Mớm cơm vú sữa cũng tay,
8. Dưỡng sanh đùm bọc với tài chí công.
9. Xét vì nhơn vật lẽ đồng,
10. Chắt chiu hằng để trọn lòng chung thương.
11. Chí mong hòa hảo Âm Dương,
12. Thuận căn theo lối bước đường vẹn chơn.
13. Mẫu Nghi hằng giữ lòng đơn,
14. Mảng lo cho trẻ đặng toàn mảnh thân.
15. Riêng thương Kim Mẫu khóc thầm,
16. Biển trần thấy trẻ lạc lầm bấy lâu.
17. Ðòi phen MẸ luống ưu sầu,
18. Cũng vì Tà mị dẫn đường con thương.
19. Ðỉnh chung là miếng treo gương,
20. Khiến nên trẻ dại lạc đường quên ngôi.
21. Ngọt ngon trẻ nhiễm mến mùi,
22. Trẻ nào có biết khúc nôi đoạn trường.
23. Ngồi trông con đặng phi thường,
24. MẸ đem con đến tận đường hằng sanh.
25. Xưa con không thấu cội nhành,
26. Vì đường Ðạo bế biệt cành hoa rơi.
27. Từ con cách MẸ phương Trời,
28. Trầm luân khổ hải chơi vơi sóng trần.
29. Dầu thương nhắm mắt đưa chơn,
30. Giờ nay gặp lối nghiệt trần giảm tiêu.
31. Ngọc Hư định phép cũng nhiều,
32. Phái Vàng MẸ lãnh dắt dìu trẻ thơ.
33. Trước kia trẻ vẫn mịt mờ,
34. Từ đây mới hản ơn nhờ Mẫu Nghi.
35. Ðắc truyền khai mối Tam Kỳ,
36. Dưới tay cậy có Diêu Trì Cửu Nương.
37. Chín Cô đã sẵn lòng thương,
38. Mê tân độ chúng buồm trương thoát vòng.
39. Lục Nương phất phướn Truy hồn,
40. Tang thương nay lúc bảo tồn chúng sanh.
41. Bát Nương thật đấng chí linh,
42. Cùng chung giáo hóa ân cần lo âu.
43. Thất Nương khêu đuốc Ðạo đầu,
44. Nhờ người gợi ánh nhiệm mầu huyền vi.
45. Môn sanh thiện niệm hằng ngày,
46. Cúi xin Kim Mẫu muôn loài cứu ương.
47. Ðê đầu khấu bái Nương Nương,
48. Nén hương đạm bạc xin thương chứng lòng."
- Nam
mô Tạo Hóa Huyền Thiên Diêu Trì Kim Mẫu.
- Nam
mô Tạo Hóa Huyền Thiên Cửu vị Nữ Phật.
I . Nguồn gốc Bài Kinh:
Kinh "Tán Tụng Công Ðức Diêu Trì Kim Mẫu"
do Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao quỳnh Diêu đặt ra, viết xong tại Thảo Xá Hiền
Cung ngày 18-5-NhâmThân (dl 21-6-1932), theo sự chỉ định của Ðức Phạm Hộ Pháp,
có dâng lên Bát Nương giáng cơ chỉnh văn lại.
Nội dung bài Kinh nầy là
để xưng tụng Công Ðức của Ðức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương.
Ngài Bảo Văn Pháp Quân
viết bài Tán Tụng Công Ðức Diêu Trì Kim Mẫu lấy ý từ bài Thi văn của Ðức Phật
Mẫu giáng cơ dạy đạo tại Thảo Xá Hiền Cung ngày 15-11-Tân Mùi (dl 23-12-1931),
Phò loan: Ðức Phạm Hộ Pháp và Ngài Bảo Văn Pháp Quân.
Bài Thi văn nầy, Ngài Bảo
Văn Pháp Quân có đăng trong tập sách nhỏ của Ngài nhan đề "MẠCH ÐẠO"
nơi trang 17 và 18, xuất bản năm Nhâm Thân (1932), xin chép nguyên văn ra dưới
đây:
"Từ Hỗn Ðộn Chí Tôn hạ chỉ,
Cho Thiếp quyền quản Khí Hư Vô.
Lấy Âm quang tạo phách tăng đồ,
Muôn vật cả lo cho sanh hóa.
Nuôi nấng lấy xác thân hòa hỏa,
Thuận Âm Dương căn quả hữu vi.
Chưa ai vào đến cõi trần nầy,
Chẳng thọ lấy Chơn thần tay Thiếp.
Sanh dưỡng đã biết bao căn kiếp,
Rồi dắt dìu cho hiệp với CHA,
Kìa mớm cơm vú sữa cũng là,
Sanh một kiếp người ta đáng mấy.
Dầu hài cốt trăm năm cũng vậy,
Khối tình thương chẳng lấy chi nhiều,
Huống tạo Thiên đùm bọc chắt chiu,
Sanh một đứa liều ngàn thế kỷ.
Chịu mất trẻ cũng vì tà mị,
Cướp con thương, bỏ vị quên ngôi.
Ôi! Thương đòi phen phải chịu ngậm ngùi.
Thấy thân trẻ nổi trôi biển khổ.
Trân trọng lấy hình hài dơ ố,
Còn thiêng liêng vô số tiếc thương,
Hằng trông mong con đặng phi thường,
Ðem vào đặng con đường hằng sống.
Kể từ trước Thiếp là hình bóng,
Biết thương
con chẳng mộng con thương,
Ðạo dìu Ðời bởi Thiếp lo lường,
Trên mới thuận khoáng trương phổ tế.
Kể từ trước Ðạo còn bị bế,
Mẹ thương con chẳng thế dắt dìu.
Nay cõi trần nghiệt chướng giảm tiêu,
Ngọc Hư định đã nhiều phép cứu.
Thiếp từ đặng Phái Vàng chí bửu,
Lịnh Chí Tôn khai mối Tam Kỳ,
Hằng ngày lo cho đám Nữ nhi,
.............."
KIM MẪU NƯƠNG
NƯƠNG
Chúng ta nhận thấy bài
Kinh "Tán Tụng Công Ðức Diêu Trì Kim Mẫu" có nhiều câu rất giống với
bài Thi của Ðức Phật Mẫu giáng cơ ban cho, hay là có ý nghĩa tương tợ. (Những
chỗ làm dấu in chữ xiên).
II. Giải nghĩa chi tiết:
1. "Kể từ Hỗn Ðộn sơ khai,
2. Chí Tôn hạ chỉ trước Ðài Linh Tiêu.
3. Lưỡng Nghi phân khí Hư Vô,
4. Diêu Trì Kim Mẫu nung lò hóa sanh."
GIẢI NGHĨA
Tán tụng: Tán là khen
ngợi, Tụng là chúc mừng, khen ngợi. Tán tụng là chúc mừng và khen ngợi.
Công đức: Công là ra sức
làm điều lành, đức là những việc làm hợp lòng người, thuận đạo Trời. Công đức
là công nghiệp và đức độ giúp người giúp đời.
Công đức của Ðức Diêu Trì
Kim Mẫu đối với chúng sanh, cao sâu và rộng lớn vô cùng, không thể nào lường
hết được. Ðối với thế gian, công sanh thành dưỡng dục, giáo hóa của một bà mẹ
đối với một đứa con còn không lấy chi đo lường được, huống chi là công đức của
Bà MẸ thiêng liêng đối với toàn cả chúng sanh là con cái thương yêu của Người.
Câu 1-2: "Kể từ Hỗn Ðộn sơ khai,"
"Chí Tôn hạ chỉ trước Ðài Linh Tiêu."
Hỗn Ðộn: Lộn lạo không
phân biệt được các thành phần. Thời Hỗn Ðộn là thời Tiên Thiên, tức là trước
khi tạo dựng Trời Ðất, các chất khí còn lẫn lộn vào nhau, chưa phân thanh lóng
trược. Sơ khai: Sơ là lúc đầu, Khai là mở ra. Sơ khai là mới mở ra lúc đầu.
Hạ chỉ: Hạ là truyền
xuống, Chỉ là mệnh lệnh của vua. Hạ chỉ là vua truyền lịnh xuống cho bề tôi thi
hành. Ở đây là Ðức Chí Tôn truyền lịnh xuống.
Ðài Linh Tiêu: Cái Ðài Cao
nơi Linh Tiêu Ðiện Ngọc Hư Cung. Ðây là nơi họp Thiên triều của Ðức Chí Tôn.
"Linh Tiêu nhất tháp thị Cao Ðài,
Ðại hội quần Tiên thử ngọc giai.
Vạn trượng hào quang tùng thử xuất,
Cổ danh bửu cảnh Lạc Thiên Thai."
(Trích Bài giáng cơ của
Ðức Chí Tôn tại Cần Thơ năm 1927)
Nghĩa là:
Nơi Ðiện Linh Tiêu có một
cái tháp gọi là Cao Ðài,
Các vị Tiên họp Ðại hội
tại bệ ngọc ấy.
Ánh hào quang từ nơi đó
chiếu ra xa đến muôn trượng,
Tên xưa, cảnh quí báu đó
là Lạc Thiên Thai.
C.1-2: "Kể từ lúc Hỗn Ðộn sơ khai, Khí Hư Vô
sanh ra Ðức Chí Tôn, rồi Ðức Chí Tôn ngự trên cái Ðài Cao nơi Ðiện Linh Tiêu
truyền lịnh xuống."
Câu 3-4: "Lưỡng Nghi phân khí Hư Vô,"
"Diêu Trì Kim Mẫu nung lò hóa sanh."
Lưỡng Nghi: Hai Nghi: Âm
quang và Dương quang, do Thái Cực biến hóa tạo ra. Khí Hư Vô: tức Hư Vô chi Khí,
là chất khí nguyên thủy của CKVT. Khí Hư Vô sanh ra Ðức Chí Tôn và ngôi của Ðức
Chí Tôn là Thái Cực.
Nung lò: Người thợ đốt
nóng cái lò để hầm các vật bằng đất sét cho thành đồ gốm. Nung lò hóa sanh: Ý
nói: Ðức Phật Mẫu dùng Kim Bàn nơi DTC như là một cái lò sản xuất để tạo ra vạn
vật.
C.3-4: "Khí Hư Vô sanh ra Ðức Chí Tôn và ngôi
của Ngài là Thái Cực. Ðức Chí Tôn phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi: Âm quang và
Dương quang. Ðức Phật Mẫu dùng Kim Bàn nơi DTC làm như một cái lò sản xuất để
cho Lưỡng Nghi phối hợp tạo thành CKVT và vạn vật."
Bốn câu thơ 1,2,3,4: đã
thi vị hóa Triết lý về Vũ Trụ Quan của Ðạo Cao Ðài, tóm tắt như sau:
Thuở nguyên thủy chưa có
CKVT thì trong khoảng không gian bao la chỉ có một khí Hồng Mông còn hỗn độn,
mờ mờ mịt mịt, gọi là Khí Hư Vô hay Hư Vô chi Khí.
Khí Hư Vô ấy lần lần ngưng
kết, nổ ra một tiếng lớn, tạo thành một khối Ðại Linh quang, hào quang chiếu
diệu rực rỡ, gọi là Thái Cực, hay là Ðại hồn của Ðấng Ngọc Hoàng Thượng Ðế (mà
chúng ta thường gọi là Ðức Chí Tôn).
Ðấng ấy được sanh ra đầu
tiên hơn hết, trọn lành trọn tốt, toàn năng toàn tri, biến hoá vô cùng.
Ðấng ấy bắt đầu phân Thái
Cực ra Lưỡng Nghi: Dương quang và Âm quang. Ðức Chí Tôn chưởng quản khí Dương
quang. Còn khí Âm quang chưa có ai chưởng quản, nên Ðức Chí Tôn hoá thân ra làm
Phật Mẫu để chưởng quản khí Âm quang. Sau đó Ðức Chí Tôn giao quyền cho Ðức
Phật Mẫu dùng 2 khí Dương quang và Âm quang phối hợp, tạo hóa ra CKVT và vạn
vật.
5. "Âm
Dương biến tạo Chơn thần,
6. Lo cho nhơn vật về phần hữu vi.
7. Mớm cơm vú sữa cũng tay,
8. Dưỡng sanh đùm bọc với tài chí công."
GIẢI NGHĨA
Câu 5: "Âm Dương biến
tạo Chơn thần."
Âm Dương: Hai khí Âm quang
và Dương quang.
Biến tạo: Biến hóa tạo
nên. Chơn thần: Xác thân thiêng liêng của con người.
C.5: "Ðức Phật Mẫu dùng hai khí Dương quang và Âm quang để tạo nên Chơn
thần (Xác thân thiêng liêng) cho con người."
Một người sống nơi cõi TL
thì phải có xác thân thiêng liêng do Ðức Phật Mẫu, Bà Mẹ thiêng liêng tạo nên.
Khi người đó đầu thai xuống cõi phàm trần và sống nơi cõi phàm trần thì phải có
thêm một xác thân phàm trần, do cha mẹ phàm trần tạo ra.
Câu 6: "Lo cho nhơn vật về phần hữu vi."
Nhơn vật: Người và vật.
Hữu vi: Tất cả những gì có hình thể, sắc tướng, thấy được, rờ được. Ðồng nghĩa
với Hữu vi là Hữu hình. Trái với Hữu vi là Vô vi, Vô hình.
C.6: "Ðức Phật Mẫu lo lắng cho người và vật về phần vật chất hữu hình."
Câu 7-8: "Mớm cơm vú sữa cũng tay,"
"Dưỡng sanh đùm bọc với tài chí công."
Mớm cơm vú sữa: Mớm cơm
cho ăn và cho bú sữa, chỉ việc mẹ nuôi con lúc sơ sanh. Dưỡng sanh: Nuôi dưỡng
cho lớn lên và sống khỏe mạnh. Ðùm bọc: Giúp đỡ, che chở với tất cả tình
thương. Chí công: Rất công bình, công bình tuyệt đối. Chỉ có Ðức Chí Tôn và Ðức
Phật Mẫu mới có được sự công bình tuyệt đối, bởi vì không có sự chi dối trá qua
mặt được hai Ðấng ấy.
C.7-8: "Một tay Ðức Phật Mẫu lo nuôi dưỡng con
cái từ lúc sơ sanh cho đến lúc lớn khôn, đùm bọc với tài năng rất công bình của
Ðấng Ðại Từ Mẫu."
9. "Xét
vì nhơn vật lẽ đồng,
10. Chắt chiu hằng để trọn lòng chung thương.
11. Chí mong hòa hảo Âm Dương,
12. Thuận căn theo lối bước đường vẹn chơn."
GIẢI NGHĨA
Câu 9: "Xét vì nhơn
vật lẽ đồng."
Nhơn vật: Người và vật. Lẽ
đồng: Cùng một lý lẽ như nhau, nghĩa là cùng được Ðức Phật Mẫu tạo ra bằng 2
chất khí Dương quang và Âm quang, chỉ có khác nhau ở trình độ tiến hoá mà thôi.
C.9: "Xét kỹ thì người và vật đều có cùng một lẽ như nhau là do Ðức
Phật Mẫu tạo ra."
Câu 10: "Chắt chiu
hằng để trọn lòng chung thương."
Chắt chiu: Quí trọng và
nâng niu chăm sóc.
Hằng: Luôn luôn, thường
thường.
C.10: "Ðức Phật Mẫu luôn luôn nâng niu chăm sóc con
cái với tất cả lòng thương yêu."
Câu 11-12: "Chí mong hòa
hảo Âm Dương,"
"Thuận căn theo lối bước đường vẹn chơn."
Chí: Ý chí, cái ý muốn to
lớn mạnh mẽ.
Hòa hảo: Hòa là êm thuận
với nhau, Hảo là tốt đẹp. Hòa hảo là thuận hòa tốt đẹp với nhau. Âm Dương: Âm
quang và Dương quang. Thuận: Xuôi theo, thuận theo.
Căn: Gốc rễ. Cái gốc rễ
của con người và muôn vật là hai khí Âm Dương, tức là Ðức Chí Tôn và Ðức Phật
Mẫu. Vẹn chơn: Hoàn toàn chơn thật.
C.11-12: "Cái ý chí mong muốn của Phật Mẫu là 2
khí Âm Dương hoà hợp tốt đẹp với nhau, để chúng sanh thuận theo đó mà bước tới
trên con đường tiến hóa hoàn toàn chơn thật."
Trong CKVT, hai khí Âm
Dương có điều hòa tốt đẹp thì Càn Khôn mới an tịnh, sự vận chuyển các Ðịa cầu
mới nhịp nhàng trật tự. Trong thân thể con người, Âm Dương có điều hòa thì con
người mới khỏe mạnh. Trong vạn vật, Âm Dương có điều hòa thì mới sanh hoá và
phát triển tốt đẹp.
Vậy sự hòa hảo Âm Dương là
điều kiện tối cần thiết để toàn thể CKVT và vạn vật tiến hóa tốt đẹp.
13. "Mẫu
Nghi hằng giữ lòng đơn,
14. Mảng lo cho trẻ đặng toàn mảnh thân.
15. Riêng thương Kim Mẫu khóc thầm,
16. Biển trần thấy trẻ lạc lầm bấy lâu."
GIẢI NGHĨA
Câu 13-14: "Mẫu Nghi hằng
giữ lòng đơn,"
"Mảng lo cho trẻ đặng toàn mảnh thân."
Mẫu Nghi: Mẫu là mẹ, Nghi
là khuôn mẫu, hình thức tốt đẹp đúng theo phép tắc. Ở cõi trần, Mẫu Nghi là Bà
Hoàng Hậu của một nước, tức là Bà mẹ gương mẫu cho các bà mẹ khác trong dân
chúng. Ở cõi thiêng liêng, Mẫu Nghi là Ðức Phật Mẫu, Bà mẹ thiêng liêng của toàn
chúng sanh.
Lòng đơn: chữ Hán là Ðơn
tâm (Ðan tâm). Ðơn là màu đỏ như son, nên dịch chữ Ðơn tâm là Lòng son, nghĩa
là tấm lòng ngay thẳng tốt đẹp không phai như màu đỏ của son.
Mảng: Ðặt hết tâm trí vào
làm một công việc. Trẻ: Chỉ toàn cả con cái của Phật Mẫu. Mảnh thân: Tấm thân.
C.13-14: "Ðức Phật Mẫu luôn luôn giữ lòng ngay
thẳng tốt đẹp, luôn luôn lo lắng cho toàn thể các con có được tấm thân toàn
vẹn."
Câu 15-16: "Riêng thương,
Kim Mẫu khóc thầm,"
"Biển trần thấy
trẻ lạc lầm bấy lâu."
Riêng thương: Thương yêu
một cách đặc biệt.
Kim Mẫu: Một danh hiệu của
Ðức Phật Mẫu.
Khóc thầm: Khóc mà không
để cho người khác biết.
Biển trần: Cõi trần được
ví như một biển khổ, con người sống trong cõi trần là đang ngụp lặn trong biển
khổ ấy. (Xem: Câu 1 bài Khai Kinh).
Lạc lầm: Lầm lạc, gây ra
điều sai trái vì mê muội không nhận ra lẽ phải.
C.15-16: "Ðức Phật Mẫu đặc biệt thương yêu con
cái của Người, thường khóc thầm vì thấy con cái bị lầm đường lạc lối trong bấy
lâu nay nên phải chịu nhiều khổ sở nơi cõi trần."
17. "Ðòi
phen MẸ luống ưu sầu,
18. Cũng vì Tà mị dẫn đường con thương.
19. Ðỉnh chung là miếng treo gương,
20. Khiến nên trẻ dại lạc đường quên ngôi."
GIẢI NGHĨA
Câu 17-18: "Ðòi phen MẸ
luống ưu sầu,"
"Cũng vì Tà mị dẫn đường con thương."
Ðòi phen: Ðòi là nhiều, phen là lần. Ðòi phen
là nhiều lần. MẸ: Ðức Phật Mẫu. Luống: Mức độ nhiều lần.
Ưu sầu: Lo lắng buồn rầu. Tà mị: Tà là cong
vạy, mị là phỉnh nịnh để lừa dối. Tà mị là những kẻ có lòng dạ không ngay
thẳng, hay nịnh hót để lừa gạt người.
C.17-18: "Ðã
nhiều lần, Ðức Phật Mẫu lo lắng buồn rầu, vì đám Tà mị dụ dỗ con cái thương yêu của Người để dẫn vào con đường bất chánh."
Câu 19-20: "Ðỉnh chung là
miếng treo gương,"
"Khiến nên trẻ dại lạc đường quên ngôi."
Ðỉnh chung: Ðỉnh là cái
vạc lớn, chung là cái chuông báo hiệu. Ðiển tích: Mạnh Thường Quân làm quan
Tướng Quốc nước Tề, nổi tiếng chiêu hiền đãi sĩ. Trong nhà luôn luôn có cả ngàn
tân khách, đều là người tài giỏi để lo bàn việc nước. Nhà bếp phải dùng nhiều
vạc lớn để nấu cơm, và khi tới giờ ăn cơm, phải đánh chuông báo hiệu, mọi người
mới nghe biết được. Do điển tích nầy, từ ngữ Ðỉnh chung hay Chung đỉnh là để
chỉ sự giàu có sang trọng.
Miếng: Một cái, một món.
Tiếng dùng có ý khinh bỉ.
Treo gương: Treo lên cao
để làm gương cho mọi người. Ngôi: Phẩm vị nơi cõi thiêng liêng, thường nói là:
Ngôi vị.
C.19-20: "Miếng mồi giàu sang danh lợi hấp dẫn
những con cái dại dột của Phật Mẫu đi vào con đường lầm lạc, quên mất ngôi vị
cũ nơi cõi thiêng liêng. Ðó là một tấm gương treo lên cho mọi người biết."
21. "Ngọt
ngon trẻ nhiễm mến mùi,
22. Trẻ nào có biết khúc nôi đoạn trường.
23. Ngồi trông con đặng phi thường,
24. MẸ đem con đến tận đường hằng sanh."
GIẢI NGHĨA
Câu 21: "Ngọt ngon trẻ nhiễm mến mùi."
Ngọt ngon: Chỉ chung những
thứ hấp dẫn làm thỏa mãn các giác quan của thể xác. Trẻ: Tiếng mà Ðức Phật Mẫu
dùng gọi con cái. Nhiễm: Thấm sâu vào. Mến: Ưa chuộng.
C.21: "Con cái của Ðức Phật Mẫu tiêm nhiễm, ưa chuộng các mùi vị ngon
ngọt của vật chất nơi cõi trần."
Câu 22: "Trẻ nào có biết khúc nôi đoạn trường."
Khúc nôi: Nỗi niềm tâm sự
thầm kín khó nói ra.
Ðoạn trường: Ðoạn là cắt
đứt ra từng khúc, trường là ruột. Ðoạn trường là đứt ruột, ý nói sự đau đớn dữ
dội như ruột bị cắt đứt từng đoạn.
C.22: "Con cái đâu có biết nỗi niềm thầm kín đoạn trường của Ðức MẸ."
Câu 23-24: "Ngồi trông
con đặng phi thường,"
"MẸ đem con đến tận đường hằng sanh."
Ngồi trông: Cử chỉ của Bà
MẸ ngồi thắc thỏm trông mong con cái trở về.
Phi thường: Phi là chẳng
phải, thường là bình thường. Phi thường là chẳng phải bình thường, tức là vượt
lên trên sự bình thường. Bình thường là ham thích lợi danh, say mê tửu sắc, ưa
chuộng vật chất; Phi thường là xa lánh lợi danh, khinh thường vật chất, xem
trọng đạo đức tinh thần, phát tâm tu hành, mong ngày sau đắc quả, linh hồn được
trở về ngôi vị cũ nơi cõi thiêng liêng. Hằng sanh: Hằng sống. Con đường hằng
sanh là con đường TLHS. Tận: Cuối. Tận đường hằng sanh: Chỗ cuối của con đường
TLHS, mà Ðạo Phật gọi là Niết Bàn.
C.23-24: "Ðức Phật Mẫu ngồi trông mong con cái
trở nên những bực phi thường để Người rước đem về cõi Niết Bàn."
25. "Xưa
con không thấu cội nhành,
26. Vì đường Ðạo bế biệt cành hoa rơi.
27. Từ con cách MẸ phương Trời,
28. Trầm luân khổ hải chơi vơi sóng trần."
GIẢI NGHĨA
Câu 25-26: "Xưa con không
thấu cội nhành,"
"Vì đường Ðạo bế biệt cành hoa rơi."
Thấu: Biết rõ. Cội nhành:
Cội cây và nhánh cây, ý nói đầu đuôi gốc ngọn.
Ðường Ðạo bế: Con đường
Ðạo bị đóng lại, bế tắc.
Ðạo là con đường để cho
các bậc Thánh Tiên bị đọa trần do theo mà trở về cựu vị. Ðạo cũng là con đường
để cho các phẩm chơn hồn do theo mà tiến hóa để đoạt phẩm vị cao trọng hơn. Như
vậy, Ðạo luôn luôn có (hằng hữu), không bao giờ mất đi hay bị tiêu diệt, chỉ có
trường hợp Ðạo bị bế hay Ðạo được khai ra mà thôi.
Việc Bế Ðạo hay Khai Ðạo,
tỉ như một dòng suối, phát khởi từ hồi Khai Thiên Lập Ðịa, nước cứ chảy mãi,
không bao giờ dứt. Trải qua nhiều thời gian, cỏ rác lần lần phủ lấp dòng suối,
đến một lúc nào đó thì mặt nước dòng suối bị phủ kín hoàn toàn, không ai còn
nhìn thấy dòng suối ấy nữa. Cỏ rác dần dần thu hẹp dòng suối, đó là thời kỳ
Chơn truyền của Ðạo bị người phàm sửa cải nên sai lạc một phần. Ðến khi dòng
suối bị cỏ rác phủ kín hoàn toàn thì Chơn truyền của Ðạo đã bị sửa đổi hoàn
toàn đến sai lạc hẳn. Ðó là thời kỳ Ðạo bị bế. Người tu bị lầm lạc, tu không
đúng Chơn truyền nên công đức có nhiều mà đắc quả thì không, tức tu nhiều mà
thành thì rất ít.
Sau đó, có một vị thông
minh sáng suốt phi thường, biết rõ nơi đây có dòng suối mát đã bị phủ kín, liền
đến đó, dùng dao xẻn phát cỏ chặt cây, dọn hết rác rến cho quang đãng sạch sẽ,
dòng suối mát liền lộ ra và nhơn loại được hưởng nước suối mát đó. Ðó là thời
kỳ Ðạo khai, và vị khai quang đó là một Ðấng Giáo chủ mở ra một Chơn truyền mới
cho nhơn sanh tu hành đắc đạo.
Ðạo bế hay Ðạo khai cứ
luân chuyển nhau mãi, Ðạo khai ra rồi lại bế, bế một thời gian rồi lại được
khai ra.Nhưng Ðạo vẫn là Ðạo, Ðạo vẫn như nhiên, luôn luôn tồn tại và lưu hành
mãi mãi trong CKVT.
"Vốn từ Lục Tổ, Phật giáo đã bị bế lại, cho nên
tu hữu công mà thành thì bất thành; Chánh pháp bị nơi Thần Tú làm cho ra mất
Chánh giáo, lập riêng pháp luật buộc mối Ðạo Thiền. .... Lắm kẻ đã chịu khổ
hạnh hành Ðạo. ... Ôi! Thương thay! Công có công mà thưởng chưa hề có thưởng,
vì vậy mà TA rất đau lòng." (TNHT. I. 22)
C.25-26: "Từ xưa, các con không biết rõ ngọn
nguồn, và cũng vì Ðạo bị bế lại mà các con như cánh hoa rơi, phải cách biệt MẸ."
Câu 27-28: "Từ con cách
MẸ phương trời,"
"Trầm luân khổ hải chơi vơi sóng trần."
Trầm luân: Trầm là chìm,
luân là chìm đắm. Trầm luân là
chìm đắm. Khổ hải: Biển khổ, bể thảm. Con người sống trong cõi trần như là đang ngụp lặn
trong biển khổ. (Xem Câu 1 Bài Khai Kinh: Biển trần khổ vơi vơi trời nước).
Chơi vơi: Trơ trọi giữa
biển khơi mênh mông, không biết bám víu vào đâu. Sóng trần: Những làn sóng trên
biển khổ vùi dập con người đang ngụp lặn trong biển khổ ấy.
Thi sĩ Ðoàn như Khuê cảm
tác bài thơ Bể thảm, trích 4 câu đầu:
"Bể thảm mênh mông sóng lụt trời,
Khách trần chèo một chiếc thuyền chơi.
Thuyền ai ngược gió, ai xuôi gió,
Coi lại cùng trong bể thảm thôi."
C.27-28: "Từ ngày các con cách biệt MẸ tới cả
một phương trời, các con phải chịu chơi vơi nơi cõi trần, chìm đắm và bị vùi
dập trong vòng khổ não."
29. "Dầu thương nhắm mắt đưa chơn,
30. Giờ nay gặp lối nghiệt trần giảm tiêu.
31. Ngọc Hư định phép cũng nhiều,
32. Phái Vàng MẸ lãnh dắt dìu trẻ thơ."
GIẢI NGHĨA
Câu 29-30: "Dầu thương
nhắm mắt đưa chơn,"
"Giờ nay gặp lối nghiệt trần giảm tiêu."
Nhắm mắt đưa chơn: Nhắm
mắt bước tới, không cần biết phía trước có gì xảy ra. Ý nói: Buông xuôi theo số
mạng, đưa đẩy tới đâu thì tới, không cần nghĩ ngợi hay tranh đấu.
Lối: Con đường đi, ý nói:
Con đường Ðạo.
Nghiệt trần: Các nghiệp ác
nơi cõi trần. Nghiệt là nghiệp ác;
trần là cõi trần. Giảm tiêu: Giảm bớt và tiêu mất.
C.29-30: "Dầu
thương các con, nhưng MẸ
đành để số phận đưa đẩy các con. Ngày nay, các con gặp được con đường Ðạo thì
cái nghiệp ác nơi cõi trần của các con sẽ được giảm tiêu" (vì nhờ sự Ðại Ân
Xá của Ðức Chí Tôn).
Câu 31: "Ngọc Hư định phép cũng nhiều."
Ngọc Hư: Ngọc Hư Cung, ở
từng Trời Hư Vô Thiên. Ðây là cơ quan Pháp luật của Thiên đình, gìn giữ Thiên
Ðiều, điều hành toàn bộ sự vận chuyển và sự tiến hóa trong CKVT.
Ðịnh: Sắp đặt. Ðịnh phép:
Lập ra pháp luật.
C.31: "Các Ðấng nơi Ngọc Hư Cung lập ra nhiều pháp luật."
Câu 32: "Phái Vàng MẸ lãnh dắt dìu trẻ thơ."
Phái Vàng: Do chữ Huỳnh
Ðạo dịch ra: Phái Vàng hay Ðạo Vàng, là chỉ Ðạo Cao Ðài của Ðức Chí Tôn, căn cứ
vào đôi liễn nơi Hiệp Thiên Ðài:
Hiệp nhập Cao Ðài, bá tánh
thập phương qui Chánh quả,
Thiên khai Huỳnh Ðạo, Ngũ
chi Tam giáo hội Long Hoa.
Nghĩa là:
- Hiệp vào Ðạo Cao Ðài,
trăm họ trong mười phương đều đắc đạo trở về ngôi chánh quả,
- Trời mở Ðạo Vàng, các
Ðấng Giáo chủ của Ngũ Chi Ðại Ðạo và Tam giáo tham dự Ðại Hội Long Hoa.
C.32: "Trong
Ðạo Cao Ðài, Ðức Phật Mẫu lãnh nhiệm vụ dìu dắt con cái tu hành."
33.
"Trước kia trẻ vẫn mịt mờ,
34. Từ đây mới hản ơn nhờ Mẫu Nghi.
35. Ðắc truyền khai mối Tam Kỳ,
36. Dưới tay cậy có Diêu Trì Cửu Nương."
GIẢI NGHĨA
Câu 33-34: "Trước kia trẻ
vẫn mịt mờ,"
"Từ đây mới hản ơn nhờ Mẫu Nghi."
Hản: Hẳn, khẳng định như
vậy, không có gì phải nghi ngờ. Mẫu Nghi: Ðức Phật Mẫu. (Xem trở lại Câu 13).
C.33-34: "Trước kia con cái của Phật Mẫu vẫn còn
mờ hồ, chưa biết Ðức Phật Mẫu là Bà MẸ thiêng liêng của mình."
Từ đây mới biết, hẳn là
phải nhờ ơn của Ðức Phật Mẫu.
Câu 35-36: "Ðắc truyền
khai mối Tam Kỳ,"
"Dưới tay cậy có Diêu Trì Cửu Nương."
Ðắc truyền: Ðược lịnh của
Ðức Chí Tôn truyền xuống.
Khai: Mở ra. Mối Tam Kỳ:
Mối Ðạo Kỳ Ba, đó là ÐÐTKPÐ. Cậy: Nhờ vào. Diêu Trì: Diêu Trì Cung.
Cửu Nương: 9 vị Nữ Tiên
nơi Diêu Trì Cung, thường gọi là Cửu vị Tiên Nương.
"Dưới quyền của Ðức Phật Mẫu có Cửu Tiên Nương
trông nom về Cơ Giáo hóa cho vạn linh, còn ngoài ra có hằng hà sa số Phật trông
nom về Cơ Phổ độ mà Quan Âm Bồ Tát là Ðấng cầm đầu. Quan Âm Bồ Tát ngự tại Cung
Nam Hải, ở An Nhàn Ðộng; còn Diêu Trì Cung thì ở tại Tạo Hóa Thiên."
(Trích Luật Tam Thể của
Ðức Cao Thượng Phẩm và Bát Nương).
C.35-36: "Ðức Phật Mẫu được lịnh truyền của Ðức
Chí Tôn, mở ra Ðạo Cao Ðài, và dưới tay nhờ có Cửu vị Tiên Nương DTC trông nom
về Cơ Giáo hóa."
37. "Chín
Cô đã sẵn lòng thương,
38. Mê tân độ chúng buồm trương thoát vòng.
39. Lục Nương phất phướn Truy hồn,
40. Tang thương nay lúc bảo tồn chúng sanh."
GIẢI NGHĨA
Câu 37-38: "Chín Cô đã
sẵn lòng thương,"
"Mê tân độ chúng buồm trương thoát vòng."
Chín Cô: Ðây là Cửu vị
Tiên Nương nơi DTC.
Mê tân: Mê là không tỉnh,
tân là cái bến sông. Mê tân là bến mê. Con người sống trong cõi trần, vì vô
minh nên mê lầm và phải chịu nhiều nỗi đau khổ phiền não. Ðức Phật ví cõi trần
là Sông mê bể khổ. Sông mê thì có Bến mê. Qua khỏi Bến mê thì tới Bờ giác (Giác
ngạn). Bến mê là cõi trần,
Bờ giác là cõi giải thoát
của người đắc đạo, tức là cõi TLHS.
Ðộ: Cứu giúp. Chúng: Nhiều
người, chúng sanh.
Buồm trương: Căng rộng
chiếc buồm trên thuyền lên cho bọc gió, để sức gió đẩy thuyền đi. Thoát: Ra
khỏi.
Vòng: Chỉ cái bánh xe, ý
nói sự Luân hồi.
C.37-38: "Cửu vị Tiên Nương đã sẵn lòng thương
yêu chúng sanh, trương cánh buồm của chiếc Thuyền Bát Nhã, chờ nơi Bến mê để
cứu vớt chúng sanh đưa sang Bờ giác, thoát vòng Luân hồi."
Câu 39-40: "Lục Nương
phất phướn Truy hồn,"
"Tang thương nay lúc bảo tồn chúng sanh."
Lục Nương: Vị Nữ Tiên thứ
6 trong Cửu vị Tiên Nương DTC. Phất: Ðưa lên cao và cho chuyển động qua lại.
Phướn: Chữ Hán gọi là
Phan. Phướn giống như lá cờ nhưng bề ngang hẹp, lại khá dài, đuôi phướn hình
bằng ngang, nhọn, hay hình đuôi cá. Có nhiều loại phướn với công dụng khác
nhau: Phướn Phật Mẫu, Phướn Thượng Phẩm, Phướn Thượng Sanh, Phướn Truy hồn hay
Phướn Tiêu Diêu, Phướn Tiếp Dẫn. Phướn Truy hồn: Cây phướn hướng dẫn các chơn
hồn đi đến các nơi trên cõi thiêng liêng. Truy là đuổi theo.
Tang thương: Tang là cây
dâu, thương là màu xanh. Tang thương là nói tắt thành ngữ: Tang điền thương
hải, nghĩa là ruộng dâu biến thành biển xanh.
Ðiển tích: Theo Thần Tiên
Truyện, Tiên Nữ Ma Cô nói vói Vương phương Bình rằng: Từ khi được hầu tiếp ông
đến nay đã từng thấy 3 lần ruộng dâu biến thành biển xanh.
Do đó, thành ngữ: Tang
điền thương hải, dùng để chỉ cuộc đời luôn luôn biến đổi (vô thường), nay vầy
mai khác, không có gì tồn tại mãi mãi.
Bảo tồn: Bảo là gìn giữ,
tồn là còn. Bảo tồn là gìn giữ cho còn. Chúng sanh: Nghĩa hẹp là nhơn loại.
C.39-40: "Lục Nương cầm phướn Truy hồn phất lên
để hướng dẫn các chơn hồn đi lên cõi thiêng liêng. LụcNương còn có nhiệm vụ bảo
tồn chúng sanh trong cuộc đời luôn luôn biến đổi."
41. "Bát Nương thật đấng chí linh,
42. Cùng chung giáo hóa ân cần lo âu.
43. Thất Nương khêu đuốc Ðạo đầu,
44. Nhờ người gợi ánh nhiệm mầu huyền vi."
GIẢI NGHĨA
Câu 41-42: "Bát Nương
thật đấng chí linh,"
"Cùng chung giáo hóa ân cần lo âu."
Bát Nương: Vị Nữ Tiên đứng
hàng thứ 8 trong Cửu vị Tiên Nương DTC. Chính Bát Nương giáng cơ cho bài Phật
Mẫu Chơn Kinh. Chí linh: Chí là rất, linh là thiêng liêng. Chí linh là rất
thiêng liêng. Giáo hóa: Dạy cho biến đổi từ xấu ra tốt, từ dốt ra biết chữ
nghĩa. Ân cần: Quan tâm săn sóc chu đáo với lòng thương mến.
C.41-42: "Bát Nương là Ðấng Nữ Tiên rất thiêng
liêng, có nhiệm vụ giáo hóa và ân cần lo lắng giúp đỡ chúng sanh."
CHÚ Ý: Câu kinh 42 thuở
xưa đọc là: "Cùng chung giáo hóa chung cùng lo âu." Câu nầy có điệp
ngữ là: Chung và Cùng. Theo bài ghi chép của Ông Truyền Trạng Phạm ngọc Trấn
ngày 12-1-Ðinh Hợi (dl 2-2-1947), Ðức Phạm Hộ Pháp dạy các Cô Giáo nhi tụng câu
kinh đó sửa lại là: "Cùng chung giáo hóa ân cần lo âu."
Câu 43: "Thất Nương khêu đuốc Ðạo đầu."
Thất Nương: Vị Nữ Tiên
đứng hàng thứ 7 trong Cửu vị Tiên Nương DTC. Khêu đuốc: Khơi lên ngọn lửa của
cây đuốc cho cháy bùng lên toả ánh sáng đẩy lùi đêm tối. Ðạo ví như ánh sáng
của ngọn đuốc, dẫn đường cho nhơn sanh đi vào chánh đạo thoát khỏi luân hồi.
Ðầu: Trước tiên.
C.43: "Thất Nương là người đầu tiên khơi lên ánh sáng của một mối Ðạo."
Theo Ðạo Sử, lúc còn xây
bàn, Thất Nương là Ðấng Nữ Tiên đầu tiên đến với nhóm 4 vị Phò loan là Cao
quỳnh Cư, Phạm công Tắc, Cao hoài Sang và Cao quỳnh Diêu, dùng văn chương thi
phú dẫn dắt 4 Ông vào đường đạo đức, rồi giao 4 Ông cho Ðức Chí Tôn thâu làm
môn đệ, đặng làm tướng soái cho Ðức Chí Tôn mở Ðạo. Thất Nương cũng chỉ dạy cho
quí Ông dùng Ngọc cơ thay việc xây bàn để cầu các Ðấng giáng dạy cho được mau
lẹ và dễ dàng hơn.
Câu 44: "Nhờ người gợi ánh nhiệm mầu huyền vi."
Nhờ người: Nhờ Thất Nương.
Gợi: Làm nảy sinh ra, khơi
lên, thường nói khêu gợi. Ánh nhiệm mầu: Ánh sáng mầu nhiệm. Mầu nhiệm là rất
huyền diệu, như có phép lạ, không thể giải thích được bằng lý lẽ thông thường.
Huyền vi: đồng nghĩa Huyền diệu.
C.44: "Nhờ Thất Nương gợi lên cho nhơn sanh thấy được ánh sáng huyền vi
mầu nhiệm của đạo đức."
KHẢO
DỊ:
*
Kinh Lễ năm 1952: Trang 28: Nhờ người gọi ánh ... Trang 105: Nhờ người gởi ánh
...
*
Kinh TÐ-TÐ năm 1968: Nhờ người gội ánh ...
*
Kinh TÐ-TÐ năm 1974, 1975: Nhờ người gọi ánh ...
45. Môn sanh thiện niệm
hằng ngày,
46. Cúi xin Kim Mẫu muôn
loài cứu ương.
47. Ðê đầu khấu bái Nương
Nương,
48. Nén hương đạm bạc xin
thương chứng lòng.
- Nam
mô Tạo Hóa Huyền Thiên Diêu Trì Kim Mẫu.
- Nam
mô Tạo Hóa Huyền Thiên Cửu vị Nữ Phật.
GIẢI NGHĨA
Câu 45: "Môn sanh thiện niệm hằng ngày."
Môn sanh: Môn sinh, môn là cửa, sinh là học
trò. Môn sanh hay Môn sinh là học trò trong cửa Ðạo, tức là những Tín đồ trong
Ðạo. Thiện niệm: Thiện là lành, niệm là tưởng nghĩ tới. Thiện niệm là tưởng nghĩ tới điều
lành.
C.45: "Chúng con là Tín đồ của Ðạo Cao Ðài hằng ngày tưởng nghĩ đến điều
lành."
Câu 46: "Cúi xin Kim Mẫu muôn loài cứu ương."
Cứu ương: Cứu thoát khỏi
các tai ương.
C.46: "Cúi xin Ðức Phật Mẫu cứu giúp muôn loài sanh vật thoát khỏi tai
ương."
Câu 47: "Ðê đầu khấu bái Nương Nương."
Ðê đầu: Ðê là cúi xuống,
Ðê đầu là cúi đầu xuống.
Khấu bái: Khấu là cúi rạp
mình xuống, bái là lạy. Khấu bái là cúi rạp mình xuống để lạy.
Nương Nương: Tiếng gọi Bà
Hoàng Hậu ở thế gian, ở đây là Ðức Phật Mẫu.
C.47: "Cúi đầu rạp mình xuống kính lạy Ðức Phật Mẫu."
Câu 48: Nén hương đạm bạc xin thương chứng lòng.
Nén hương: Nén hương là
một thẻ gồm nhiều cây nhang đốt cháy tỏa mùi thơm. Ðạm bạc: Ðạm là lạt lẽo, bạc
là mỏng. Ðạm bạc là đơn sơ nghèo nàn.
C.48: Trong cảnh đơn sơ
nghèo nàn, xin đốt nén hương kính dâng lên Ðức Phật Mẫu thương xót chứng cho
lòng thành.
Hai Câu cuối: là 2 câu
niệm cầu nguyện Ðức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương, tức Cửu vị Nữ Phật, ở từng
Trời Tạo Hóa Thiên.
Cửu vị Tiên Nương DTC lập
được nhiều công quả trong thời kỳ khai mở Ðạo Cao Ðài, nên đã được đắc phong
vào hàng Phật vị, nên gọi là Cửu vị Nữ Phật.
(Ðây là cách hiểu thông
thường theo 5 nấc thang tiến hóa của Vạn linh do Ngũ Chi Ðại Ðạo lập thành: Ðạt
được Tiên vị rồi mới tu tiến hóa lên hàng Phật vị.)
ÐỨC PHẬT MẪU
&
Cửu vị Tiên Nương
Khi Báo Ân Từ được Ðức
Phạm Hộ Pháp tạm dùng làm Ðền thờ Ðức Phật Mẫu, Ðức Phạm Hộ Pháp dạy đắp tượng
Ðức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương theo sự tích: Hớn rước Diêu Trì. (Xem sự tích
nầy nơi Câu 6, Kinh Khi Về).
Hình chụp nơi trang kế sau
chỉ là phần bên trên của toàn thể bức tượng thờ nơi Báo Ân Từ. (Xem lại các
trang: PMCK 195, 196, 197)
Chúng ta thấy, ngự trên
mình chim Thanh loan:
Ở chính giữa, tượng lớn
hơn hết là tượng của Ðức Phật Mẫu.
Ở hai bên, phía tay mặt và
phía tay trái của Ðức Phật Mẫu là 9 pho tượng của Cửu vị Tiên Nương, mỗi vị đều
có cầm Bửu pháp, kể ra như sau:
Nhứt Nương, tên là HOA,
mặc áo màu xanh, tay ôm Bửu pháp là Ðàn Tỳ Bà, ngồi dưới thấp, bên trái của Ðức
Phật Mẫu.
Nhị Nương, tên là CẨM,
cũng mặc áo màu xanh, tay cầm Bửu pháp là Lư Hương, ngồi kế bên phía trái của
Ðức Phật Mẫu.
Tam Nương, tên là TUYẾN,
cũng mặc áo màu xanh, tay cầm Bửu pháp là Long Tu Phiến (Quạt Long Tu), ngồi
dưới thấp, bên phía mặt của Ðức Phật Mẫu.
Tứ Nương, tên là GẤM, mặc
áo màu đỏ, tay cầm Bửu pháp là Kim Bảng, ngồi bên mặt Ðức Phật Mẫu, kế bên Tam
Nương.
Ngũ Nương, tên là LIỄU,
mặc áo màu đỏ, tay cầm Bửu pháp là Cây Như Ý, ngồi bên trái của Ðức Phật Mẫu,
kế Nhị Nương.
Lục Nương, tên là HUỆ, mặc
áo màu đỏ, tay cầm Bửu pháp là Phướn Tiêu Diêu, cũng gọi là Phướn Truy hồn,
ngồi kế bên mặt của Ðức Phật Mẫu.
Thất Nương, tên là VƯƠNG
THỊ LỄ, mặc áo màu vàng, tay cầm Bửu pháp là Bông sen, ngồi phía trái của Ðức
Phật Mẫu, kế bên Nhứt Nương.
Bát Nương, tên là HỚN LIÊN
BẠCH, mặc áo màu vàng, tay cầm Bửu pháp là Giỏ Hoa Lam, ngồi nơi phía mặt của
Ðức Phật Mẫu, kế bên Tam Nương.
Cửu Nương, tên là CAO THỊ
KHIẾT, mặc áo màu xanh, tay cầm Bửu pháp là Ống Tiêu, ngồi nơi phía mặt của Ðức
Phật Mẫu, kế Lục Nương.
Phía sau Ðức Phật Mẫu và
Cửu vị Tiên Nương là 4 Tiên đồng Nữ nhạc đứng hầu, kể ra:
Vương Tử Phá, mặc áo màu
xanh, đứng hầu bên phía trái của Ðức Phật Mẫu, tay cầm cây Phướn.
Ðổng Song Thành, mặc áo
màu xanh, đứng hầu bên phía mặt của Ðức Phật Mẫu, tay cũng cầm cây Phướn giống
y như Vương Tử Phá.
An Phát Trinh, mặc áo màu
vàng, đứng hầu bên phía trái của Ðức Phật Mẫu, kế bên trái Vương Tử Phá, tay
cầm quạt lông cán dài.
Hứa Phi Yến, mặc áo màu
vàng, đứng hầu bên phía mặt Ðức Phật Mẫu, kế bên mặt Ðổng Song Thành, tay cũng
cầm quạt lông cán dài giống y như An Phát Trinh.
[ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ] [ 8 ] [ 9 ] [ 10 ] [ 11 ] [ 12 ] [ 13 ] [ 14 ] [ 15 ] [ 16 ] [ 17 ] [ 18 ] [ 19 ] [ 20 ] [ 21 ] [ 22 ] [ 23 ] [ 24 ] [ 25 ] [ 26 ] [ 27 ] [ 28 ] [ 29 ] [ 30 ] [ 31 ] [ 32 ] [ 33 ] [ 34 ] [ 35 ] [ 36 ] [ 37 ] [ 38 ] [ 39 ] [ 40 ] [ 41 ] [ 42 ] [ 43 ] [ 44 ] [ 45 ] [ 46 ] [ 47 ] [ 48 ] [ 49 ] [ 50 ] [ 51 ] [ 52 ] [ 53 ] [ 54 ] [ 55 ] [ 56 ] [ 57 ] [ 58 ] [ 59 ] [ 60 ] [ 61 ] [ 62 ] [ 63 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét