Kinh Hôn Phối (Giọng
Nam xuân)
1. Cơ sanh hóa Càn Khôn
đào tạo,
2. Do Âm Dương hiệp đạo biến
thiên.
3. Con người nắm vững chủ
quyền,
4. Thay Trời tạo thế giữ
giềng nhơn luân.
5. Ở trước mắt Hồng Quân
định phận,
6. Ðạo vợ chồng đã xứng nợ
duyên.
7. Trăm năm khá nhớ hương
nguyền,
8. Chồng hay trọn nghĩa,
vợ hiền trọn trinh.
9. Ðã cùng gánh chung tình
hòa ái,
10. Tua đút cơm, sửa dải
làm duyên.
11. Dưới trăng bóng ngọc
còn nguyên.
12. Ôm bình, bao tóc sang
hèn cũng cam.
13. Ðường tổ nghiệp nữ nam
hương lửa,
14. Ðốt cho nồng
từ bữa ba sanh.
15. Giữa đền
để một tấc thành
16. Ðồng
sanh đồng tịch đã đành nương nhau."
(Niệm 3 lần Câu
Chú của Thầy)
GIẢI NGHĨA
Kinh Hôn Phối do Ðức
Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ ban cho, để tụng trong khi vị Chức sắc làm Phép
Hôn Phối cho đôi Tân hôn trong Nội điện Tòa Thánh.
Hôn Phối: Hôn là việc lấy
vợ lấy chồng, phối là hiệp lại. Hôn phối là việc con trai con gái phối hợp
thành vợ chồng.
Câu 1-2: "Cơ sanh hóa Càn Khôn đào tạo,"
"Do Âm Dương hiệp đạo biến thiên."
Cơ sanh hóa: Cơ là bộ máy,
hóa là sanh ra. Cơ sanh hóa là bộ máy của Trời hóa sanh vạn vật. Càn Khôn:
CKVT.
Ðào tạo: Ðào là nhồi nắn;
tạo là làm ra. Ðào tạo là nhồi nắn làm ra. Âm Dương: Hai chất khí Âm quang và
Dương quang, do Thái cực biến hóa sanh ra. Ðức Chí Tôn làm chủ Dương quang, và
Ðức Phật Mẫu làm chủ Âm quang.
Hiệp đạo: Hiệp là hợp lại,
đạo là con đường. Hiệp đạo là hai con đường hợp lại. Biến thiên: Thay đổi.
C.1-2: "Cơ sanh hóa của Ðức Chí Tôn đào tạo ra
CKVT và vạn vật là do 2 Khí Âm quang và Dương quang hợp lại và biến hóa sanh
ra."
Câu 3-4: "Con người nắm vững chủ quyền,"
"Thay Trời tạo thế giữ giềng nhơn luân."
Tạo thế: Tạo lập ra cõi
đời. Nhơn luân: Luân là cách cư xử theo lẽ phải trong cuộc sống. Nhơn luân là
phép tắc để con người cư xử với nhau cho hợp lẽ phải và đạo đức.
C.3-4: "Con người được Ðức Chí Tôn giao cho
cái chủ quyền thay thế Ðức Chí Tôn tạo ra cõi đời, và phải gìn giữ giềng mối
nhơn luân."
Câu 5-6: "Ở trước mắt Hồng Quân định phận,"
"Ðạo vợ chồng đã xứng nợ duyên."
Hồng Quân: Hồng là to lớn,
Quân là cái bàn xoay của người thợ nặn đồ gốm. Hồng Quân là cái bàn xoay to lớn
để nặn ra các thứ đồ vật, ý so sánh để nói rằng Ðấng Tạo Hóa đã chuyển vận 2
Khí Âm Dương làm như cái bàn xoay để sản xuất ra vạn vật. Trong Văn Tuyển có
câu: "Hồng Quân đào vạn loại, Ðịa khối bẩm quần sanh." Nghĩa là: Trời
nhào nặn ra muôn vật, Ðất nuôi sống chúng sanh.
Vậy Hồng Quân là Ông Trời,
Hóa Công, Thượng Ðế.
Ðịnh phận: Sắp đặt cái số
phận cho mỗi người.
Ðạo vợ chồng: Phép tắc cư
xử giữa vợ chồng. Nợ duyên: Duyên nợ, mối dây ràng buộc thành vợ chồng do nợ nần
với nhau từ kiếp trước.
C.5-6: "Ở trước mắt Ðức Chí Tôn, Ngài sắp đặt
số phận 2 người thành vợ chồng, cư xử cho xứng duyên nợ với nhau."
KHẢO
DỊ:
-
Kinh Lễ năm 1952: Ở trước mặt.
-
Kinh TÐ-TÐ 1936, 1968, 1974, 1975: Ở trước mắt.
Câu 7-8: "Trăm
năm khá nhớ hương nguyền,"
"Chồng hay trọn nghĩa, vợ hiền trọn trinh."
Trăm năm: Một đời người,
suốt đời. Hương nguyền: Ðốt nhang khấn vái thề nguyền với nhau. Chồng hay:
Chồng tài giỏi. Trọn nghĩa: Tròn vẹn trong việc cư xử đúng lẽ phải. Trọn trinh:
Giữ trọn lòng ngay thẳng trong sạch với chồng.
C.7-8: "Suốt đời phải ghi nhớ buổi đốt nhang
khấn vái thề nguyền với nhau. Chồng tài giỏi giữ trọn nghĩa thì người vợ hiền
phải giữ trọn tiết trinh."
Câu 9-10: "Ðã cùng gánh
chung tình hòa ái,"
"Tua đút cơm, sửa dải làm duyên."
Cùng gánh: Cùng nhau gánh
vác.
Chung tình:
Tình yêu chung thủy.
Hòa ái: Thương yêu hòa thuận
nhau. Tua: Phải, nên.
ÐÚT CƠM: Ðút cho ăn
từng miếng cơm. Chồng đút cơm cho vợ ăn, theo điển tích Tống Hoằng:
Dưới triều
vua Quang Vũ nhà Hậu Hán, có quan Ðại Phu là Tống Hoằng, tánh chánh trực và lại
có tình nghĩa.
Tống Hoằng
có một người vợ chẳng may bị bịnh phải mù lòa. Hằng ngày, ngoài giờ làm việc quan, Tống
Hoằng săn sóc vợ và đút cơm cho vợ ăn. Dù vợ bị mù lòa nhưng Tống Hoằng vẫn một lòng thương yêu chung
thủy.
Vua Quang Vũ có chị là Hồ
Dương Công Chúa sớm góa chồng, rất ái mộ Tống Hoằng và thường nói: Nếu ai được
như Tống Hoằng thì Công Chúa mới chiụ ưng làm chồng. Vua Quang Vũ biết vậy nên
gọi riêng Tống Hoằng đến ướm lời:
- Ngạn vân: Quí dịch giao,
phú dịch thê, hữu chư?
(Ngạn ngữ nói rằng: Sang
đổi bạn, giàu đổi vợ, có chăng?)
Tống Hoằng tâu rằng:
- Thần văn: Bần tiện chi
giao mạc khả vong, tao khang chi thê bất khả hạ đường. (Thần nghe: Bạn bè lúc
nghèo hèn chớ nên quên, người vợ tấm cám chớ để nhà sau.)
Hán Quang Vũ và Công Chúa
nghe Tống Hoằng nói thế thì bỏ ngay ý định của mình và rất kính phục Tống
Hoằng.
"Tống Hoằng chí trượng phu không đổi,
Giữ nhơn luân, sợ lỗi đạo hằng.
Từ duyên Công Chúa giao thân,
Ðút cơm vợ quáng ân cần dưỡng nuôi."
(Trích NTTP của Ðoàn thị
Ðiểm)
SỬA DẢI: Dải là cái băng
dài bằng vải hay lụa, cột thòng xuống nơi áo lễ hay nơi mão, gọi là dải áo hay
dải mão. Sửa dải là người vợ sửa dải áo hay dải mão trong bộ triều phục của
chồng trước khi chồng vào triều chầu vua, ý nói: Người vợ chăm nom săn sóc
chồng.
Sự tích sửa dải của Vợ
Châu Công như sau:
Châu Công Ðán, thường gọi
là Châu Công, là con thứ tư của vua Văn Vương, là em của Võ Vương, phò Võ Vương
làm đến tước Hầu. Khi Châu Công vào triều chầu vua, vợ Châu Công thường cột dải
áo và dải mão cho chồng. Khi chồng trở về thì ra săn sóc chồng, tháo dải áo và
dải mão ra cất, với một tình thương yêu đậm đà, lại còn lo tề gia nội trợ, lo
việc canh cửi làm gương cho dân, chớ không ỷ mình là mệnh phụ của triều đình mà
kiêu hãnh.
"Vợ Châu Công đình thần mạng phụ,
Ở thôn quê lam lụ làm ăn.
Chồng thì triều nội cao sang.
Vợ lo canh cửi cơ hàn khổ thân.
Giúp chồng đặng ân cần nhiếp chánh,
Cho nên trang Chúa Thánh tôi hiền.
Vợ không tham nhũng bạc tiền,
Chồng lo trọn đạo nắm quyền chăn dân."
(Trích trong NTTP của Ðoàn
thị Ðiểm)
C.9-10: Ðã cùng gánh chung
tình hòa ái, Tua đút cơm sửa dải làm duyên, nghĩa là: Ðã cùng nhau xây dựng gia
đình thì phải giữ lòng chung thủy thương yêu hoà thuận cùng nhau, săn sóc nhau
lúc hoạn nạn như Tống Hoằng đút cơm cho vợ mù lòa, như vợ Châu Công sửa dải áo
và dải mão cho chồng tạo nên cái duyên dáng của vợ đối với chồng.
Câu 11: "Dưới trăng
bóng ngọc còn nguyên."
"Bóng ngọc: Bóng dáng của người con gái đẹp."
C.11: "Dưới ánh trăng, bóng dáng của người con gái đẹp vẫn còn giữ được
nguyên vẹn."
Ðiển tích: Có một vị quan
sanh được một đứa con gái rất đẹp, lại có tài văn học. Khi đến tuổi cập kê, ông
muốn chọn rể đông sàng cho vừa ý con gái, bằng cách cho con gái thử thách tài
nghệ các chàng trai đến dạm hỏi.
Vào một đêm trăng, ông cho
trải chiếu giữa sân để con gái cùng cậu trai đàm thuyết thử tài nhau, nhưng
không đặng làm điều sái phép giữa nam và nữ. Chàng trai giữ đúng tư cách lễ
nghi, lại có tài văn học, nên được chọn làm rể. Hai vợ chồng ăn ở rất tương
kính và hạnh phúc.
Câu 12: "Ôm bình, bao
tóc sang hèn cũng cam."
Ôm bình: Ôm giữ tấm bình
phong, ý nói lấy được vợ đẹp, giàu sang, theo sự tích sau đây:
Trước thời nhà Ðường, Ông
Ðậu Nghị là một quan lớn có người con gái rất đẹp vừa đến tuổi lấy chồng. Ông
muốn chọn rể có tài cung kiếm (vì đang thời loạn lạc), ông ra điều kiện cho các
chàng trai đến gấm ghé: Trong nhà có treo tấm bình phong, trên đó có vẽ đôi
chim sẻ rất đẹp, lay động theo làn gió nhẹ. Chàng trai nào bắn trúng mắt chim
sẻ thì được nhận làm rể. Nhiều cậu đến bắn nhưng không trúng, tới phiên Lý Uyên
đến bắn thì trúng ngay mắt chim nên được nhận làm rể. Về sau, Lý Uyên trở thành
vua Ðường Cao Tổ, mở ra nhà Ðường và vợ trở thành Ðậu Hoàng Hậu. Hai vợ chồng
vẫn giữ mãi tấm bình phong để làm kỷ niệm mối duyên vợ chồng.
Bao tóc: Bao kín mái tóc
lại, ý nói giữ lòng chung thủy với chồng dù khi gặp hoạn nạn, theo điển tích
sau đây:
Vào đời nhà Ðường có Ông
Giả Trực Ngôn đang làm quan, vì mang tội với vua nên bị vua đày đi xuống Lãnh Nam
20 năm. Giả Trực Ngôn về than với vợ: Tôi chẳng may bị vua bắt tội, đày vào
Lãnh Nam 20 năm, không biết sống chết lẽ nào. Vậy nay tôi không ràng buộc nàng
làm vợ tôi nữa, để nàng tự do chọn tấm chồng khác nương nhờ tấm thân về sau.
Người vợ nghe nói vậy thì
khóc rống lên, rồi đi lấy lụa trắng vấn tóc lại thật chặt, xong bảo chồng lấy
viết đề lên đó mấy chữ: "Phi quân thủ bất giải "(Không phải tay chồng
không được gỡ ra). Ý vợ của Ngôn quyết giữ lòng chung thủy, chờ ngày chồng mãn
hạn lưu đày trở về đoàn tụ.
C.12: "Ðã kết thành vợ chồng với nhau thì phải giữ lòng chung thủy đến
trọn đời, nếu giàu sang thì cùng hưởng, nếu hoạn nạn thì cùng chung chịu."
Câu 13-14: "Ðường tổ
nghiệp nữ nam hương lửa,"
"Ðốt cho nồng từ bữa ba
sanh."
Tổ nghiệp:
Sự nghiệp của Tổ Tiên để lại. Ðường tổ nghiệp: Con đường nối tiếp sự nghiệp của Tổ
Tiên.
Hương lửa: Hương lửa là
nhang đèn, chỉ sự đốt nhang khấn vái thề nguyền kết thành chồng vợ. Nữ Nam
hương lửa: Tình nghĩa thắm thiết giữa vợ chồng. Ba sanh: Ba kiếp sống, đã thề
nguyền kết hợp với nhau thì nội trong 3 kiếp thế nào cũng phải gặp nhau. Ba sanh
là ý nói duyên nợ tiền định.
C.13-14: "Ðể nối tiếp sự nghiệp của Tổ tiên, vợ
chồng phải thương yêu nhau, ăn ở nồng thắm với nhau, vì việc vợ chồng là duyên
nợ tiền định."
Câu 15-16: "Giữa đền để
một tấc thành,"
"Ðồng sanh đồng tịch đã đành nương nhau."
Giữa đền: Giữa đền thờ Ðức
Chí Tôn. Tấc thành: Tấm lòng thành thật. Ðồng sanh đồng tịch: Do câu thơ cổ:
"Sanh đồng tịch đồng sàng, thác đồng quan đồng quách." Nghĩa là: Sống
thì cùng ăn trên một chiếc chiếu, cùng nằm trên một chiếc giường, chết thì cùng
nằm trong một cái hòm. (Tịch là chiếc chiếu, Sàng là cái giường).
C.15-16: "Giữa đền thờ Ðức Chí Tôn, hãy bày tỏ
tấm lòng thành thật. Vợ chồng sống chung với nhau thì phải giữ lòng chung thủy,
nương dựa và chung chịu với nhau suốt đời."
[ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ] [ 8 ] [ 9 ] [ 10 ] [ 11 ] [ 12 ] [ 13 ] [ 14 ] [ 15 ] [ 16 ] [ 17 ] [ 18 ] [ 19 ] [ 20 ] [ 21 ] [ 22 ] [ 23 ] [ 24 ] [ 25 ] [ 26 ] [ 27 ] [ 28 ] [ 29 ] [ 30 ] [ 31 ] [ 32 ] [ 33 ] [ 34 ] [ 35 ] [ 36 ] [ 37 ] [ 38 ] [ 39 ] [ 40 ] [ 41 ] [ 42 ] [ 43 ] [ 44 ] [ 45 ] [ 46 ] [ 47 ] [ 48 ] [ 49 ] [ 50 ] [ 51 ] [ 52 ] [ 53 ] [ 54 ] [ 55 ] [ 56 ] [ 57 ] [ 58 ] [ 59 ] [ 60 ] [ 61 ] [ 62 ] [ 63 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét