Kinh: NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ " 經 玉 皇 上 帝 "
Nguồn gốc bài
Kinh:
Kinh Ngọc Hoàng
Thượng Ðế, còn được gọi là Ngọc Hoàng Thiên Tôn Bửu
Cáo, hay vắn tắt là Ngọc Hoàng Bửu Cáo, do Ðại Tiên Lữ đồng Tân, thường gọi là
Lữ Tổ, tước hiệu Phu Hựu Ðế Quân, một vị trong Bát Tiên, giáng cơ ban cho ở bên Trung Hoa, sau đó mới truyền sang VN.
Bài Ngọc Hoàng Bửu Cáo có in trong quyển Kinh:
"Quan Thánh Ðế Quân Cứu Kiếp Vĩnh Mạng Kinh", và có cho
biết xuất xứ của bài Kinh nầy như sau:
"Quang Tự Tân Mão, cửu
ngoạt, sóc, Quan Ðế thỉnh Phu Hựu Ðế Quân giáng tác thử cáo, phú tụng dĩ kính
Thiên Ðế".
Nghĩa là: Niên
hiệu Quang Tự (nhà Thanh), năm Tân Mão, tháng 9, ngày mùng 1, Ðức Quan Thánh thỉnh
mời Ðức Phu Hựu Ðế Quân giáng cơ viết ra lời cáo nầy, để
cho người tụng kinh biết mà tôn kính Ðấng Thượng Ðế.
Ðối chiếu niên lịch,
năm giáng cơ ban cho Kinh Ngọc Hoàng Bửu Cáo là năm thứ 17 đời vua Ðức Tông nhà
Thanh, niên hiệu Quang Tự, ngày 1-9-Tân Mão, tương ứng với dương lịch là ngày 3-10-1891.
Trong việc giải thích chi tiết bài Kinh Ngọc Hoàng Thượng Ðế , có viết Hán
văn kèm theo, soạn giả căn cứ phần chánh vào bản Kinh Hán văn in trong quyển
"TỨ THỜI NHỰT TỤNG KINH" xuất bản năm 1928 của Nhị vị Ðầu Sư Thượng
Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt, và có sự phối hợp đối chiếu với bản Hán văn in
trong quyển 大 道 三 期 普 度 經 (ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ KINH) của Bà Nữ Ðầu Sư Lâm Hương Thanh.
1 . Ðại La
Thiên Ðế, (大 羅 天 帝)
2 . Thái Cực
Thánh Hoàng. (太 極 聖 皇)
GIẢI NGHĨA
Câu 1-2: "Ðại La Thiên Ðế,"
Thái Cực Thánh Hoàng.
Ðại: Lớn. La: Tấm lưới. Ðại La là tấm lưới lớn. Thiên: Trời. Ðế: Vua. Thiên
Ðế là vua Trời. Thái Cực: Ngôi của Ðấng Chí Tôn Thượng Ðế. Thánh: Thiêng liêng
mầu nhiệm. Hoàng: Vua. Thánh Hoàng là vua Thánh.
TNHT. II. 62: "Thầy đã nói với
các con rằng: Khi chưa có chi trong CKTG thì Khí Hư Vô sanh ra có một Thầy và ngôi
của Thầy là Thái Cực. Thầy phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi phân ra Tứ
Tượng, Tứ Tượng biến Bát Quái, Bát Quái biến hóa vô cùng, mới lập ra CKTG. Thầy
lại phân Tánh Thầy mà sanh ra vạn vật là: Vật chất, Thảo mộc, Côn trùng, Thú cầm,
gọi là chúng sanh."
Bài Thánh ngôn trên của Ðức Chí Tôn là nền tảng Triết lý về Vũ Trụ Quan của
Ðạo Cao Ðài.
Trước khi tạo dựng CKVT thì trong khoảng không gian bao la, chỉ có một khí
Hồng Mông Hỗn Ðộn mờ mờ mịt mịt gọi là Hư Vô chi Khí (Khí Hư Vô). Khi tới ngày
giờ thì trong Khí ấy nổ ra một tiếng dữ dội, sanh ra một Ðấng gọi là Ngọc Hoàng
Thượng Ðế mà ngôi của Ngài là Thái Cực.
Ðấng ấy là Ðấng Tuyệt đối, duy có một, huyền diệu vô cùng, trọn lành trọn tốt,
toàn tri toàn năng. Ðấng ấy phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi: Âm Quang và Dương
Quang. Ngài làm chủ Dương Quang, rồi Ngài hóa thân ra Ðức Phật Mẫu để làm chủ
Âm Quang.
Khi đã có đủ Âm Dương rồi, Ngài cho Âm Dương chuyển động, biến hóa ra Tứ Tượng:
Thái Dương, Thái Âm, Thiếu Dương, Thiếu Âm. Tứ Tượng biến hóa ra Bát Quái: Càn,
Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Ðoài. Bát Quái tiếp tục biến hóa tạo thành CKVT
và vạn vật.
CKVT của Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế về phần hữu hình gồm có: Tam thiên Thế giới
(3000 Thế giới) và Thất thập nhị Ðịa (72 Ðịa cầu), cộng lại là 3072 ngôi sao. Mỗi
ngôi sao có một vị Thiên Ðế cai quản. (Thiên đế cũng là hóa thân của Thượng Ðế).
Các ngôi sao ấy được ví như những mắc lưới của một tấm lưới lớn (Ðại La) bao
trùm CKVT, nên Ðấng chưởng quản toàn cả tấm lưới lớn ấy được gọi là Ðại La
Thiên Ðế. Ðấng ấy là vị vua thiêng liêng ngự tại ngôi Thái Cực, nên cũng gọi Ðấng
ấy là Thái Cực Thánh Hoàng.
Ðấng ấy hóa sanh ra vạn vật và nhơn loại, là CHA chung của chúng sanh, nên
còn gọi Ðấng ấy là Ðại Từ Phụ.
Ðấng ấy là Ðấng duy nhứt, được tôn kính nhứt trong CKVT, nên gọi Ðấng ấy là
Ðại Thiên Tôn.
(Ðấng Thiên Ðế cai quản Ðịa cầu 68 của nhơn loại chúng ta được Phật giáo gọi
là Phạm Thiên Vương hay Ðế Thích).
Ðấng Ngọc Hoàng Thượng Ðế thường ngự trên một cái đài cao nơi Linh Tiêu Ðiện
Ngọc Hư Cung để họp Thiên triều của Ngài, nên Ngài tự xưng là Ðấng Cao Ðài, và
Ngài đặt ra Câu Chú riêng của Ngài trong thời ÐÐTKPÐ gồm 12 chữ là: "Nam mô Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma
ha Tát".
ÐÐTKPÐ được gọi là Ðạo Cao Ðài là vì tôn giáo nầy do Ðấng Cao Ðài giáng cơ
lập ra và làm Giáo chủ. Ngài giáng cơ dạy đạo, xưng mình là Thầy và gọi các tín
đồ là Môn đệ.
Nhơn loại thường gọi Ðấng Cao Ðài là Ðức Chí Tôn, đôi khi cũng gọi là Ðấng
Chí Linh, Ðấng Chí Công.
Tóm lại, trong CKVT nầy, có một Ðấng duy nhứt tạo dựng ra CKVT và hóa sanh
vạn vật. Ðấng ấy được người đời gọi bằng nhiều danh từ khác nhau tùy theo trường
hợp, kể ra:
"Ðấng Ðại La Thiên Ðế.
Ðấng Thái Cực Thánh Hoàng.
Ðấng Ngọc Hoàng Thượng Ðế, hay vắn tắt
là Ðấng Thượng Ðế.
Ðấng Huyền Khung Cao Thượng Ðế Ngọc Hoàng.
Ðấng Ðại Thiên Tôn.
Ðấng Ðại Từ Phụ.
Ðấng Cao Ðài.
Ðấng Chí Tôn, Ðấng Chí Linh, Ðấng Chí Công.
Ðấng ấy tự xưng là Thầy và gọi Tín đồ là Môn đệ."
C.1-2: "Có một Ðấng tạo dựng ra
CKVT, hóa sanh vạn vật, được người đời gọi là Ðấng Ngọc Hoàng Thượng Ðế và nhiều
danh hiệu khác nữa, trong đó có 2 danh hiệu là: Ðại La Thiên Ðế, Thái Cực Thánh
Hoàng."
3. Hóa dục quần sanh, (化 育 群 生)
4. Thống ngự vạn vật. (統 御 萬 物)
GIẢI NGHĨA
Câu 3: "Hóa dục quần sanh."
Hóa: Sanh ra. Dục: Nuôi dưỡng. Quần: Nhiều, tụ họp đông đảo. Sanh: Sống. Quần
sanh: đồng nghĩa với Chúng sanh, chỉ tất cả các loài có sự sống như: Thảo mộc,
Côn trùng, Thú cầm và Nhơn loại.
C.3: "Ðấng Thượng Ðế hóa sanh và
nuôi dưỡng các loài sanh vật."
Câu 4: "Thống ngự vạn vật."
Thống: Tóm lãnh hết cả. Ngự: Cai trị.
C. 4: "Ðấng Thượng Ðế cai trị
toàn cả vạn vật."
5 . Diệu diệu
Huỳnh Kim Khuyết, (渺 渺 黃 金 闕)
6 . Nguy nguy Bạch
Ngọc Kinh. (巍 巍 白 玉 京)
GIẢI NGHĨA
Câu 5: "Diệu diệu Huỳnh Kim Khuyết."
Diệu: Còn được đọc là Diêu, Diểu, Miểu, nghĩa là xa tít mù. Diệu diệu: Ở mù
mù rất xa.
Huỳnh: Màu vàng. Kim: Vàng, một thứ kim loại rất quí, là vua của các kim loại.
Huỳnh Kim là vàng ròng. Khuyết: Cái cổng vào đền vua. Huỳnh Kim Khuyết: Cái cổng
làm toàn bằng vàng ròng để đi vào Ðền của Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế. Phía trong
Huỳnh Kim Khuyết là nơi họp Triều đình của Ðức Thượng Ðế .
C.5: "Cái cổng lớn Huỳnh Kim
Khuyết ở mù mù rất xa."
Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo "Con
đường Thiêng liêng Hằng sống" có nói như sau:
"Trên hết, chúng ta
ngó thấy Ðức Chí Tôn ngự với cái triều nghi của Ngài là Huỳnh Kim Khuyết. Nơi
Huỳnh Kim Khuyết, trên đầu của Ngài nơi xa xa, chúng ta thấy vọi vọi, xa nữa
chúng ta thấy 3 vị Phật mà hiện giờ ta thấy tượng hình nơi nóc BQÐ là: Brahma
Phật, Civa Phật, và Christna Phật, ngự trên nữa, xa hơn nữa, coi vọi vọi xa xăm
hơn nữa, chúng ta không thế gì tưởng tượng được, con mắt mình ngó thấy như một
đạo hào quang chớp nhoáng mà không có hình ảnh gì hết, chiếu diệu trên cái triều
nghi của Ngài là Huỳnh Kim Khuyết, mà dưới Huỳnh Kim Khuyết là Cửu phẩm Thần
Tiên đang ngự triều với Ðức Chí Tôn, chúng ta không thế gì tưởng tượng được,
oai nghiêm huyền bí làm sao!"
Câu 6: Nguy nguy Bạch Ngọc Kinh.
Nguy: Dáng núi cao lớn đồ sộ. Nguy nguy: Ðồ sộ cao vòi vọi. Bạch Ngọc: Loại
đá quí màu trắng trong rất đẹp. Kinh: Tòa lâu đài to lớn dùng làm nơi đóng đô của
vua.
Vàng là vua loài kim, Ngọc là vua loài đá, cho nên 2 thứ quí báu nầy được
dùng làm các vật dụng của vua hay để trang trí trong đền vua.
Bạch Ngọc Kinh là tòa lâu đài đồ sộ làm toàn bằng ngọc trắng, làm nơi ngự của
Ðức Chí Tôn Thượng Ðế.
C.6: "Ðền Bạch Ngọc Kinh đồ sộ
cao vòi vọi."
Có bài thơ trong TNHT. I. 112 mô tả Bạch Ngọc Kinh:
Tân tả Bạch Ngọc Kinh
Một tòa Thiên các ngọc làu
làu,
Liền bắc cầu qua nhấp nhóa
sao.
Vạn trượng then gài ngăn Bắc
Ðẩu,
Muôn trùng nhiếp khảm hiệp
Nam Tào.
Chư Thần chóa mắt màu thường
đổi,
Liệt Thánh kinh tâm phép vẫn
cao.
Dời đổi chớp giăng đoanh đỡ
nổi,
Vững bền muôn kiếp chẳng hề
xao.
Bạch Ngọc Kinh là tòa lâu đài quí báu nhứt, đồ sộ đẹp đẽ nhứt, huyền diệu
nhứt nơi cõi TL. Lâu đài nơi cõi trần còn bị hư sập hay bị hủy hoại theo thời
gian, nhưng Bạch Ngọc Kinh thì tồn tại vĩnh viễn. Tất cả các Chơn linh , khi đã
đắc đạo, đều phải đến Bạch Ngọc Kinh bái lễ Ðức Chí Tôn.
Tòa Thánh Tây Ninh được Ðức Phạm Hộ Pháp xây cất theo kiểu vở do Ðức Lý
Giáo Tông giáng cơ vẽ ra, căn cứ theo hình ảnh của Bạch Ngọc Kinh. Do đó, Tòa
Thánh Tây Ninh được xem là Bạch Ngọc Kinh tại thế.
Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo về Con đường Thiêng liêng Hằng sống có mô tả Bạch
Ngọc Kinh như sau:
"Lại gần tới, còn thấy
một vật khác thường quái lạ, nhưng nó là một tòa Thiên các đẹp đẽ lắm, màu sắc
thay đổi sáng rỡ, mà cả Thoại khí bao quanh, làm như thể vận chuyển hình trạng
của nó vậy. Lâu đài chớn chở mà nó là con vật sống chớ không như gạch đá chúng
ta làm đây, nó vận hành như con vật sống vậy, thay đổi màu sắc vô cùng vô biên.
Bí pháp ấy không thế gì tả
đặng, ngó thấy đặc sắc lắm!
Nhà cửa ở thế gian nầy là
con vật chết, Bạch Ngọc Kinh là con vật sống, biến hóa thay đổi như thể vận
hành, xung quanh Thoại khí bao trùm, từ Nam chí Bắc, từ Ðông qua Tây. Khối lửa
ánh sáng ấy, chúng ta ngó thấy như mặt trời vậy, mà ánh sáng mặt trời thì nóng
nực bực bội, còn ánh sáng nơi tòa Bạch Ngọc Kinh lại dịu dàng và huyền bí lắm,
sung sướng khoái lạc lắm!
Tại sao đài các là con tử
vật mà nó sống? Sống là do nơi đâu? Nếu biết thì không lạ gì!
Bạch Ngọc Kinh là do Hỗn
Nguơn Khí biến hình ra. Hỗn Nguơn Khí là Khí Sanh Quang của chúng ta đã thở, đã
hô hấp, khí để nuôi cả sanh vật sống. Ta sống cũng do do nơi nó xuất hiện, mà
biểu nó làm sao không sống?
Khi Bần đạo ngồi trên Pháp
xa đến, thấy các Chơn linh hằng hà sa số, bao vây trước cửa la liệt không thể đếm.
Pháp xa vừa ngừng, Bần đạo bước xuống thấy 3 cửa nơi Bạch Ngọc Kinh có 12 vị Thời
Quân mặc khôi giáp, tay cầm Bửu pháp, đứng cản đường không cho thiên hạ vô. Bần
đạo thấy 3 cửa ấy xa nhau, mỗi cửa có 4 người giữ. Bần đạo muốn nói chuyện thì
3 cửa ấy gom lại, 12 người hiệp lại đứng trước mặt Bần đạo. Bần đạo hỏi, vì cớ
nào không cho người ta vô?
Vừa hỏi thì họ bỡ ngỡ nói
người ta biểu đừng cho vô. Nói người ta biểu thì Bần đạo biết là Kim Quang Sứ
biểu xúi đừng cho các Chơn linh vào Bạch Ngọc Kinh. Giận quá, day mặt ra ngoài
biểu các Chơn linh vô. Họ tràn vô nghe một cái ào, dường như nước bể bờ chảy
vào Bạch Ngọc Kinh vậy. Tới chừng các Chơn linh vô hết, liền biểu 12 vị Thời
Quân vô, rồi đứng dòm cùng hết thảy coi còn ai ở ngoài nữa không? Bần đạo cầm
cây Giáng Ma Xử đi vô Bạch Ngọc Kinh sau hết.
Bạch Ngọc Kinh chia làm 3
căn, cửa chính giữa các vị Phật cao siêu, mình đứng day vô, phía bên tả là phái
nữ, phía bên hữu là phái nam. Bần đạo nghe đi rần rần rộ rộ, bên kia thì thấy
hình bóng chiếu qua vách mà thôi, tấm vách thật lạ lùng, trong trắng giống như
sương sa vậy.
Buổi đầu, Bần đạo không để
ý, đi tới nữa, thấy cả thảy đều có ngôi vị của họ sẵn. Bần đạo vô cửa thấy họ
ngồi có chỗ hết, còn mình thì bơ thờ, cầm cây Giáng Ma Xử đi vô, không biết đi
đâu. Nói sao người ta có chỗ ngồi, còn mình không có? Vừa nói rồi thì thấy có
người đứng gần bên mình mà không hay, họ trả lời: Cái ngai của Ngài kia. Bần đạo
dòm lên thấy cái ngai tốt lắm, thấy rồi mà trong bụng hồ nghi nói không biết họ
có gạt mình không. Bần đạo sợ, vừa sợ thì có người nói: Chính cái ngai đó là của
Ngài.
Từ thử đến giờ, dầu vạn kiếp
sanh chịu khổ để tạo vị nơi mặt thế gian nầy cũng không bằng ngồi được trên đó.
Nơi đó sung sướng lắm, sung sướng làm sao đâu! ..."
7. Nhược thiệt nhược hư, (若 實 若 虛)
8. Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa. (不 言 而 默 宣 大 )
GIẢI NGHĨA
Câu 7: "Nhược thiệt nhược hư."
Nhược: Nếu như, ví bằng. Thiệt: Thực, có hình ảnh cụ thể thấy được. Hư: Trống
không, không thấy gì cả.
C.7: "Như là có thật, nhìn thấy
được; như là trống không, không thấy gì cả."
Ðó là Ðạo Trời huyền diệu không lường, hư hư thực thực, biến hóa mầu nhiệm
vô cùng, lúc có lúc không, không thể nào lấy trí phàm mà biết hết được.
Câu 8: "Bất ngôn nhi mặc tuyên đại
hóa."
Bất: Không. Ngôn: Lời nói. Bất ngôn: Không lời nói. Nhi: Mà. Mặc: Yên lặng.
Tuyên: Bày tỏ cho người khác biết. Ðại: Lớn. Hóa: Biến đổi. Ðại hóa: Cuộc biến
hóa lớn.
C.8: "Không nói ra mà cứ yên lặng
tỏ bày cuộc biến đổi rộng lớn trong khắp CKVT."
Sách Luận Ngữ: Thiên hà ngôn tai! Tứ thời hành yên? Vạn vật sanh yên? Nghĩa
là: Trời có nói gì đâu! Bốn mùa há không vận chuyển sao? Muôn vật há không sanh
hóa sao?
9 . "Thị không, thị sắc. (是 空 是 色)
10 . Vô vi nhi dịch sử quần linh. (無 為 而 役 使 群 靈)
GIẢI NGHĨA
Câu 9: "Thị không, thị sắc."
Thị: Là, ấy là. Không: Trống rổng, mắt phàm không thấy chi cả. Sắc: Những
thứ có hình tướng, mắt phàm thấy rõ.
C.9: "Là trống không, là có hình tướng."
SẮC thì có hình tướng nên thuộc vật chất hữu hình.
KHÔNG thuộc vô vi, không hình tướng, mắt phàm không thể thấy được. Nói như
thế là đối với người phàm, với mắt phàm; nhưng đối với con mắt thiêng liêng thì
không có gì là KHÔNG, không có gì là SẮC, tức là không còn phân biệt SẮC và
KHÔNG.
Bát Nhã Tâm Kinh của Phật giáo có câu:
"SẮC tức thị KHÔNG,
KHÔNG tức thị SẮC,
SẮC bất dị KHÔNG, KHÔNG bất
dị SẮC."
Nghĩa là:
SẮC tức là KHÔNG, KHÔNG tức là SẮC,
SẮC không khác với KHÔNG, KHÔNG không khác với SẮC.
Trong Ðạo Ðức
Kinh, Ðức Lão Tử cũng có nói: "Hữu xuất ư Vô". Nghĩa là: Cái CÓ từ cái KHÔNG mà ra.
Thuở tạo dựng Trời Ðất, Ðức Chí Tôn dùng 2 Khí Dương quang và Âm quang, là
2 chất khí không hình ảnh (tức là KHÔNG) để phối hợp sanh ra CKVT và vạn vật có
hình thể (tức là SẮC). Như vậy, Ðức Chí Tôn đã lấy KHÔNG mà tạo thành SẮC. Khi
đã có sắc tướng rồi thì phải chịu luật Thành Trụ Hoại Diệt, sắc tướng chỉ tồn tại
một thơì gian rồi phải bị tiêu diệt để trở về KHÔNG, tức là trở về nguồn cội Vô
Vi.
Câu 10: "Vô vi nhi dịch sử quần
linh."
Vô: Không. Vi: Làm. Nhi: Mà. Dịch: Sai khiến làm việc. Sử: Sai khiến. Quần
linh: Quần là nhiều, Linh là chơn linh, Linh hồn. Quần linh đồng nghĩa Vạn
linh, chỉ tất cả chơn linh trong CKVT gồm đủ Bát phẩm chơn hồn: Kim thạch hồn,
Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn và Phật hồn.
Vô Vi: Nghĩa đen là không làm, nghĩa thường dùng là không hình ảnh, thuộc
vô hình. Trái với Vô Vi là Hữu Vi, là có hình ảnh thấy được, thuộc hữu hình sắc
tướng.
Ðạo Ðức Kinh viết rằng: "Ðạo thường vô vi nhi vô bất vi". Nghĩa
là: Cái Ðạo thường thì không làm gì nhưng không việc gì không làm được.
Ðạo là Hư Vô chi Khí, mà Hư Vô chi Khí sanh ra Ðức Chí Tôn, nên Ðức Chí Tôn
cũng chính là Ðạo. Ngài không làm gì nhưng sai khiến được Vạn linh trong CKVT
vì Ngài là Ðạo.
C.10 : "Ðức Chí Tôn ở trạng thái
vô vi mà sai khiến toàn cả vạn linh trong CKVT."
11. Thời thừa lục long, du hành bất tức. (時 乘 六 龍 遊 行 不 息)
GIẢI NGHĨA
Thời: Thường thường. Thừa: Cỡi. Lục long: Sáu con rồng. Du hành: Ði khắp
nơi. Bất tức: Không ngừng nghỉ.
Lục long là 6 con rồng, tượng trưng 6 vạch liền của quẻ CÀN trong Kinh Dịch.
Vương Bật, thuộc phái Huyền học thời Nam Bắc Triều bên Tàu, chú giải tượng
của quẻ Càn trong Kinh Dịch như sau:
"Thời thừa lục long
dĩ ngự Thiên, Càn đạo biến hóa, các chánh tánh mạng." Nghĩa là: Luôn luôn cỡi 6 rồng để ngự trị Trời, đạo Càn biến hóa, mỗi vật
giữ ngay ngắn vận mạng của bản tánh.
Càn tượng trưng Trời. Thời thừa lục long là chỉ cái sức mạnh mẽ của Ðấng
Thượng Ðế bao trùm CKVT như 6 con rồng vùng vẫy trong không trung.
Du hành bất tức là chỉ sự vận chuyển và sự biến hóa luôn luôn, và vô cùng tận
của Ðấng Thượng Ðế.
Nơi nóc Plafond dù ở 9 cấp Cửu Trùng Ðài của Tòa Thánh Tây Ninh, có tạc
hình 6 con rồng đoanh nhau theo 3 màu đạo: 2 rồng vàng, 2 rồng xanh, 2 rồng đỏ,
để tượng trưng cho Câu kinh 11 ở trên.
C.11: "Nghĩa đen là: Thường cỡi
6 rồng đi khắp nơi không ngừng nghỉ. Nghĩa bóng là: Cái sức mạnh to lớn và sự
chuyển vận biến hóa vô cùng tận của Ðấng Thượng Ðế."
12. Khí phân Tứ Tượng. (氣 分 四 象)
13. Oát triền vô biên. (斡 旋 無 邊)
GIẢI NGHĨA
Câu 12: "Khí phân Tứ Tượng."
Khí: Chất khí, ở đây chỉ khí Lưỡng Nghi: Âm quang và Dương quang. Phân:
Chia ra. Tứ Tượng: Bốn Tượng gồm: Thái Dương, Thái Âm, Thiếu Dương, Thiếu Âm.
Theo phần Giải nghĩa nơi Câu 1 và Câu 2 thì: Khí Hư Vô biến sanh Thái Cực,
ngôi của Ðức Chí Tôn và đó cũng là một Khối Ðại Linh Quang của Ðức Chí Tôn. Ðức
Chí Tôn phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi: Âm quang và Dương quang. Hai khí nầy xây
chuyển và phối hợp với nhau để sanh ra Tứ Tượng. Rồi Tứ Tượng biến hóa tiếp tục
để tạo ra Bát Quái. Bát Quái biến hóa vô cùng để tạo thành CKVT và vạn vật.
Như vậy, nguồn gốc phát khởi là Khí Hư Vô.
Thái Cực, Lưỡng Nghi, Tứ Tượng đều là thể khí với nguồn năng lực là ánh
sáng linh thiêng vô cùng tận. Tới khi Bát Quái biến hóa thì bắt đầu có Trời Ðất
và vạn vật hữu hình.
C.12: "Khí phân Tứ tượng là 2
khí Dương quang và Âm quang phối hợp để hóa sanh ra Tứ Tượng."
Câu 13: "Oát triền vô biên."
Oát: Chuyển xoay đi. Triền: Xoay trở lại. Oát triền là xoay chuyển qua lại.
Vô biên: Không biên giới, không giới hạn.
CHÚ Ý: Chữ Hán 斡 旋 phải phiên âm ra tiếng Việt là OÁT TRIỀN thì mới đúng chánh tả, theo Từ Ðiển
Hán Việt của Ðào Duy Anh quyển II, trang 87 và 490.
C.13: "Xoay chuyển qua lại, rộng
ra không giới hạn."
14. "Càn kiện cao minh. (乾 健 高 明)
15. "Vạn loại thiện ác tất kiến. (萬 類 善 惡 悉 見)
GIẢI NGHĨA
Câu 14: "Càn kiện cao minh."
Càn: Quẻ đầu tiên trong Bát Quái, tượng trưng Trời. Kiện: Mạnh mẽ. Cao: Ở
trên cao. Minh: Sáng tỏ.
C.14: "Ngôi Càn mạnh mẽ, cao vọi,
sáng tỏ."
Trong quyển "Châu Dịch Huyền Giải" của Minh Lý Ðạo ấn tống, nói về
sự mạnh mẽ của ngôi Càn như sau:
"Kiền (Càn) là cương
kiện. Nói rõ hơn, Kiền là cương kiện bất khuất chi nghĩa. Thế của nó có 6 hào đều
dương, tượng của nó là thuần dương (nên nói 6 rồng, rồng thuộc về Dương). Mạnh
không chi bằng Trời, Trời là Ðạo, một khí lưu hành, tuần hoàn không giáp mối,
trải bao nhiêu thời gian, không gian, không ngằn mé (vô biên). Vạn vật không có
một vật nào mà không đặng nó che chở, mà cũng không vật nào làm hại nó được."
Câu 15: "Vạn loại thiện ác tất
kiến."
Vạn loại: Muôn loài sanh vật trong CKVT. Thiện ác: Lành và dữ. Tất: Ðều, biết
rõ. Kiến: Thấy, biết.
C.15: "Việc lành, việc dữ của
muôn loài vật đều biết và thấy rõ."
Do đó, trong Ðạo Cao Ðài, Ðức Chí Tôn dạy thờ Thiên Nhãn là thờ THẦY. Thầy
là Trời, là Thượng Ðế, mà theo lời nói thông thường là Trời cao có Mắt, cái gì
cũng thấy rõ hết, dầu giấu giếm kín đáo đến đâu cũng không thể che được con Mắt
thiêng liêng của Trời được.
16. Huyền phạm quảng đại. (玄 範 廣 大)
17. Nhứt toán họa phước lập phân. (一 算 禍 福 立 分)
GIẢI NGHĨA
Câu 16 : "Huyền phạm quảng đại."
Huyền: Sâu xa kín đáo, huyền diệu. Phạm: Khuôn mẫu để người ta bắt chước
làm theo, phép tắc. Quảng: Rộng lớn. Ðại: Lớn. Quảng đại là rộng lớn.
C.16: "Cái khuôn phép huyền diệu
và rộng lớn."
Phạm vi khuôn phép của Trời Ðất rộng lớn mênh mông vô cùng, nhưng cũng rất
huyền diệu, dầu một mũi kim nhỏ cũng không qua lọt, một mảy cũng không bỏ sót.
Cho nên có câu: Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu. Nghĩa là: Lưới Trời lộng
lộng, thưa mà không lọt.
Câu 17: "Nhứt toán họa phước lập
phân."
Nhứt: Một. Toán: Ðếm số mà tính ra nhiều ít, làm toán, tính toán. Họa: Tai
vạ lớn. Phước: Ðiều may mắn tốt lành. Lập: Tạo nên, lập thành. Phân: Chia ra.
C.17: "Chỉ một cái tính toán mà
Ðức Chí Tôn tạo lập và chia ra một cách rành rẽ cái nào là họa, cái nào là phước."
Cái tính toán của Ðức Chí Tôn thể hiện bằng Cây Cân Công Bình thiêng liêng,
để cân họa phước, trong nháy mắt thì biết rõ kết quả: Phước nhiều thì thăng, tội
nhiều thì đọa.
Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo về Con đường Thiêng liêng Hằng sống, có mô tả Ðức
Chí Tôn cầm Cây Cân Công Bình thiêng liêng như sau:
"Vừa nói rồi thì thấy Ổng (Ðức Chí Tôn) bước ra đứng ngay chính giữa,
ngó ngay Bần đạo, dường như thể biểu con coi đây, ngó ngay lên Ổng, thấy đạo
hào quang chiếu diệu ra, tay cầm cây gậy coi đẹp lắm. Cây gậy của Ổng quảy cái
bầu, bên mình Ổng mang một cái bị, mặc bộ đồ Ngọc Hoàng Thượng Ðế, nắm ngang
cây gậy trên tay thành cây đòn cân, Ổng kéo cái bầu ra thành cái giá cân, Ổng
kéo cái bị ra thành trái cân. Ba món báu ấy hiệp lại thành Cây Cân Công Bình
thiêng liêng mà chính mình đã thấy Ổng nơi Linh Tiêu Ðiện."
18. "Thượng chưởng Tam thập lục Thiên, Tam thiên Thế giới. (上 掌 三 十 六 天, 三 千 世 界)
GIẢI NGHĨA
Thượng: Ở trên, phần trên. Chưởng: Nắm giữ, cai quản . Tam thập lục: 36.
Thiên: Ở đây có nghĩa là từng Trời. Tam thập lục Thiên là 36 từng Trời.
Tam thiên: 3000. Thiên là một ngàn. Thế giới: Ðịa cầu. Khi nhìn lên bầu trời
vào đêm, chúng ta thấy những vì sao lấp lánh sáng, đó là những Thế giới. Những
Thế giới thanh nhẹ thì ở trên cao, những Thế giới ít thanh nhẹ hơn thì ở dưới
thấp. Tam thiên Thế giới là 3000 Thế giới, tức 3000 Ðịa cầu.
C.18: "Ở phần trên của Vũ trụ, Ðức
Chí Tôn chưởng quản 36 từng Trời và 3000 Thế giới."
Ðức Cao Thượng Phẩm giáng cơ dạy Luật Tam Thể, có đoạn nói về Tam thiên Thế
giới và Thất thập nhị Ðịa như sau:
"Mấy em thử phân lại
Tam thiên Thế giới và Thất thập nhị Ðịa coi thử? Bạch: Tam thiên Thế giới là ở
từng trên bao phủ mà Thất thập nhị Ðịa ví như bàn cờ ở dưới. Ðức Cao Thượng Phẩm
nói: Phải đó vậy. Tam thiên Thế giới là ngôi vị, còn Thất thập nhị Ðịa là Trường
thi Công quả, hiểu chưa?"
Theo lời dạy của Ðức Cao Thượng Phẩm thì bên trên của vũ trụ hữu hình là
3000 Thế giới, chỉ gồm có những ngôi vị của chư Thần Thánh Tiên Phật, còn bên
dưới của vũ trụ là 72 Ðịa cầu có nhơn loại ở, nơi đó dùng làm Trường Thi Công
Quả, tức là để cho nhơn loại tu hành, lập công bồi đức mà đắc đạo, đoạt được quả
vị và được thăng lên ở trên 3000 Thế giới.
19. Hạ ốc Thất thập nhị Ðịa, (下 握 七 十 二 地)
Tứ Ðại
Bộ Châu. (四 大 部 洲)
GIẢI NGHĨA
Hạ: Ở dưới, ở phần dưới. Ốc: còn đọc là Ác, nghĩa là: Nắm lấy, cầm giữ. Thất
thập nhị: 72. Ðịa: Ðịa cầu. Thất thập nhị Ðịa: 72 quả Ðịa cầu. Các Ðịa cầu nầy
được đánh số từ cao dần xuống thấp, tức là từ thanh khiết xuống trọng trược, và
Ðịa cầu của nhơn loại chúng ta đang ở là Ðịa cầu số 68.
Tứ: 4. Ðại: Lớn. Bộ: Ngành, môn. Châu: Vùng đất lớn có biển bao bọc chung
quanh.
Tứ Ðại Bộ Châu là 4 Bộ Châu lớn được phân chia theo 4 hướng: Ðông, Tây,
Nam, Bắc , có tên là:
Ðông Thắng Thần Châu,
Tây Ngưu Hóa Châu,
Nam Thiệm Bộ Châu,
Bắc Câu Lư Châu.
Thất thập nhị Ðịa (72 Ðịa cầu) được chia ra ở trong Tứ Ðại Bộ Châu nầy. Ðịa
cầu 68 của nhơn loại chúng ta thuộc Nam Thiệm Bộ Châu.
C.19: "Ở phần dưới của vũ trụ, Ðức
Chí Tôn chưởng quản 72 Ðịa cầu và 4 Bộ Châu lớn."
Tóm tắt 2 Câu 18 & 19:
Phần trên của vũ trụ là Tam thập lục Thiên và Tam thiên Thế giới; phần dưới
của vũ trụ là Tứ Ðại Bộ Châu và Thất thập nhị Ðịa. Tất cả trên dưới đều do Ðấng
Ngọc Hoàng Thượng Ðế tạo dựng và chưởng quản. Như vậy CKVT của Ðức Chí Tôn gồm
có 2 phần: Hữu hình và Vô hình.
Phần Vô hình gồm: Tam thập lục Thiên và Tứ Ðại Bộ Châu (36 từng Trời và 4 Bộ
Châu lớn).
Phần Hữu hình gồm: Tam thiên Thế giới và Thất thập nhị Ðịa (3000 Thế giới
và 72 Ðịa cầu).
Ðức Chí Tôn dạy Ông Phối Sư Thái Bính Thanh làm một Trái Càn Khôn tượng
trưng CKVT thờ nơi BQÐ TTTN:
TNHT. I. 45: "Bính! Thầy giao
cho con lo một Trái Càn Khôn, con hiểu nghĩa gì không? Cười ... Một trái như
trái đất tròn quay, hiểu không? Bề kính tâm 3 thước 3 tấc, nghe con! Lớn quá,
mà phải vậy mới đặng, vì là cơ mầu nhiệm Tạo Hóa trong ấy, mà sơn màu xanh da
trời, Cung Bắc Ðẩu và Tinh tú vẽ lên Trái Càn Khôn ấy.
Thầy kể, Tam thập lục
Thiên, Tứ Ðại Bộ Châu, ở không không trên không khí, tức là không phải Tinh tú,
còn lại Thất thập nhị Ðịa và Tam thiên Thế giới thì đều là Tinh tú. Tính lại
3072 ngôi sao. Con phải biểu vẽ lên đó cho đủ.
Con giở sách Thiên văn Tây
ra coi mà bắt chước. Tại ngôi Bắc Ðẩu, con phải vẽ 2 cái bánh lái cho đủ và sao
Bắc Ðẩu cho rõ ràng. Trên vì sao Bắc Ðẩu, vẽ Con Mắt Thầy."
20. Tiên Thiên, Hậu Thiên, (先 天 後 天)
Tịnh dục
Ðại Từ Phụ (並 育 大 慈 父)
GIẢI NGHĨA
Tiên: Trước. Hậu: Sau. Thiên: Trời.
Tiên Thiên là trước khi tạo dựng Trời Ðất. Thời kỳ Tiên Thiên nằm trong khoảng
thời gian từ khi xuất hiện ngôi Thái Cực cho đến khi Thái Cực phân ra Lưỡng
Nghi Âm Dương. Dương nhẹ nổi lên thành Trời, Âm nặng chìm xuống thành Ðất. Thời
kỳ Tiên Thiên còn ở trạng thái Vô vi, vô hình.
Hậu Thiên là sau khi tạo dựng Trời Ðất. Thời Hậu Thiên nằm trong khoảng thời
gian sau khi xuất hiện Lưỡng Nghi, tức là sau khi có được Trời Ðất, tức CKVT và
vạn vật. Thời kỳ nầy thuộc về Hữu hình sắc tướng.
Thái Cực Lưỡng Nghi Trục thời gian
--------------------O---------------------------------------------O------------>>
Hồng mông (Hỗn Ðộn) Tiên Thiên Hậu Thiên
Tịnh: Cùng, đều. Dục: Nuôi dưỡng. Tịnh dục là nuôi dưỡng đồng đều như nhau.
Ðại: Lớn. Từ: Lòng thương yêu chúng sanh. Phụ: Cha. Ðại Từ Phụ là người Cha lớn
hơn hết các người cha, có lòng lành thương yêu chúng sanh, vì chúng sanh đều là
con cái của Ngài. Ðấng ấy là Ngọc Hoàng Thượng Ðế, nay gọi là Ðấng Cao Ðài.
C.20: "Trước khi tạo dựng Trời Ðất,
sau khi tạo dựng Trời Ðất, Ðức Chí Tôn là Ðại Từ Phụ của toàn cả chúng sanh,
nuôi dưỡng chúng sanh đồng đều như nhau."
Ðấng Thượng Ðế nuôi sống chúng sanh bằng không khí để thở, bằng ánh sáng mặt
trời để sưởi ấm, nước để uống và các loại thực phẩm. Không vì người đạo đức mà
Thượng Ðế ban cho nhiều hơn, hay không vì kẻ hung bạo gian tà mà ban cho nó ít
hơn, không ban cho nó sống. Còn các vật, không vì loài hữu ích mà ban cho nó
nhiều, không vì loài độc hại mà lấy bớt. Thượng Ðế nuôi dưỡng chúng sanh mọi
loài đều như nhau. Tình thương của Thượng Ðế chan hòa đồng đều khắp cả.
Mặt khác, Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế là Thầy mà cũng là Cha (Ðại Từ
Phụ). Ðức Phạm Hộ Pháp thắc mắc điểm nầy nên có cầu Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, hỏi:
- Phàm là Cha thì làm Cha, còn Thầy thì làm Thầy, chớ sao Ðại Từ Phụ lại
xưng là Thầy, rất nên khó hiểu?
Ðức Nguyệt Tâm trả lời bằng bài thơ Pháp văn, dịch ra thơ song thất lục bát
như sau: (Ðức Phạm Hộ Pháp dịch)
Người cũng vẫn Cha Thầy
luôn một,
Cả chơn linh, hài cốt, tay
Người.
Nuôi mình dùng vật thanh
tươi,
Tạo hồn lấy phép tột vời Chí
Linh.
Nơi Người vốn quang minh
cách trí,
Tấn hóa hồn phép quí không
ngưng.
Vật hèn trước mắt thành
trân,
Hồn hèn Người lại dành phần
Phật Tiên.
Luật Thương yêu, quyền là
ngay chánh,
Gần thiện căn, xa lánh
phàm tâm.
Làm Cha nuôi sống âm thầm,
Làm Thầy lại nhượng phẩm
Thần ngôi Tiên.
21. "Kim ngưỡng, cổ ngưỡng."
22. "Phổ tế Tổng Pháp tông."
今 仰 古 仰
普 濟 總 法 宗
GIẢI NGHĨA
Câu 21: "Kim ngưỡng, cổ ngưỡng."
Kim: Thời nay. Cổ: Thời xưa.
Ngưỡng: Ngửa mặt nhìn lên với lòng kính mến.
C.21: "Thời nay cũng như thời
xưa, đều được kính mến."
Câu 22: "Phổ tế Tổng Pháp tông,"
Phổ: Khắp nơi, rộng lớn. Tế: Giúp đỡ.
Tổng: Gom lại. Pháp: Pháp có nghĩa rất rộng, ở đây, Pháp có nghĩa là Giáo
lý của một nền tôn giáo. Tông: còn đọc là Tôn: Tôn giáo. Pháp tông là giáo lý của
một tôn giáo.
Tổng Pháp tông là gom tất cả Giáo lý của các nền tôn giáo lại thành một mối.
C.22: "Giúp đỡ chúng sanh, gom tất
cả Giáo lý của các nền tôn giáo có từ trước tới nay thống nhứt thành một mối dưới
sự chưởng quản của Ðức Chí Tôn."
Xưa kia, Ðức Chí Tôn cho khai mở riêng rẽ nhiều nền tôn giáo khác nhau nơi
các vùng dân cư khác nhau trên mặt Ðịa cầu nầy, để giáo hóa và cứu giúp dân
chúng vùng đó, vì thuở ấy, con người còn kém văn minh, việc đi lại và thông tin
từ nơi nầy đến nơi khác rất khó khăn. Các tôn giáo chỉ hành đạo nơi địa phương
riêng của mình mà thôi. Bởi thế, nhơn loại bị phân chia đối nghịch nhau, cho đạo
mình là chánh, đạo khác là tà.
Ngày nay, nhơn loại tiến đến một nền văn minh rất cao, nhơn loại đã hiệp đồng,
và cũng đúng vào thời kỳ Hạ nguơn Mạt kiếp, một cuộc Tận thế sắp xảy ra, để
chuyển sang Thượng nguơn Thánh đức, nên Ðức Chí Tôn mở lòng Ðại từ Ðại bi, khai
sáng ÐÐTKPÐ để gom tất cả Giáo lý của các nền tôn giáo đã có từ trước tới nay,
qui về một mối duy nhứt là Ðạo Cao Ðài, không còn chia rẽ phân biệt nhau, cùng
nhau có chung một tín ngưỡng, cùng thờ một Ðấng Duy Nhứt Tối Cao, Chúa Tể CKVT,
và cũng là Ðại Từ Phụ của nhơn loại. Ðó chính là tôn chỉ của Ðạo Cao Ðài: Qui
nguyên Tam giáo, Phục nhứt Ngũ Chi.
Ðây là thời kỳ mà Ðức Chí Tôn làm một cuộc Tổng Pháp tông, thống hợp các
tôn giáo, cứu độ toàn chúng sanh trong buổi đời Mạt kiếp của Hạ Nguơn Tam Chuyển
nầy.
23. "Nãi Nhựt, Nguyệt, Tinh, Thần
chi quân,"
24. "Vi Thánh, Thần, Tiên, Phật
chi chủ."
乃 日 月 星 辰 之 君
為 聖 神 仙 佛 之 主
GIẢI NGHĨA
Câu 23: "Nãi
Nhựt, Nguyệt, Tinh, Thần chi quân."
Nãi: Bèn, hóa ra
là, ấy là. Nhựt: Mặt trời. Nguyệt: Mặt trăng. Tinh: Ngôi sao, tinh tú. Thần: Ngày giờ, chỉ về thời gian. Chi: Tiếng đệm.
Quân: Vua.
Nhựt, Nguyệt, Tinh là Tam bửu trên bầu trời, chỉ về Không
gian. Thần là ngày giờ, chỉ về Thời gian.
Câu 23: "Ấy
là vua của Mặt trời, Mặt trăng, Ngôi sao, và ngày giờ, tức là vua của Không
gian và Thời gian."
Ðức Chí Tôn có giáng cơ dạy rằng:
"Thập nhị Khai Thiên
là Thầy, Chúa cả Càn Khôn Thế Giới, nắm trọn Thập nhị Thời Thần vào tay. Số 12
là số riêng của Thầy," (TNHT. I.12)
Theo Bài Thánh ngôn nầy, Ðức Chí Tôn là Chúa của Càn Khôn Thế Giới, tức là
Chúa của Nhựt Nguyệt Tinh; và Ðức Chí Tôn cũng là Chúa của Thập nhị Thời Thần,
tức là Chúa của Thời gian.
Câu 24: "Vi Thánh Thần Tiên Phật
chi chủ."
Vi: Là. Thánh, Thần, Tiên, Phật: Bốn cấp phẩm vị thiêng liêng dành cho những
người đạo đức tu hành đắc quả, tùy theo công đức nhiều ít mà được phẩm vị cao
thấp tương xứng. Phẩm thấp nhứt là Thần, cao hơn chút là phẩm Thánh, cao hơn nữa
là phẩm Tiên, và cao nhứt là phẩm Phật.
Chi: Tiếng đệm. Chủ: Người làm chủ, làm Chúa, tức là người làm ra sự vật và
có toàn quyền quyết định số phận của sự vật ấy.
C.24: "Là người chủ của chư Thần,
Thánh,Tiên, Phật."
Người chủ đó là Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế. Ðức Chí Tôn, chẳng những
là chủ của các Ðấng ấy, mà còn là Cha sanh ra các Ðấng ấy nữa.
TNHT. I. 52: "Khai Thiên Ðịa vốn Thầy, sanh Tiên, Phật cũng Thầy. Thầy
nói một Chơn thần mà biến Càn Khôn Thế Giới và cả nhơn loại.
Thầy là chư Phật, chư Phật là Thầy.
Các con là chư Phật, chư Phật là các con.
Có Thầy mới có các con, có các con rồi mới có chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Thầy khai Bát Quái mà tác thành Càn Khôn Thế Giới, nên mới gọi là Pháp.
Pháp có mới sanh ra Càn Khôn Vạn vật, rồi mới có người, nên gọi là Tăng.
Thầy là Phật, chủ cả Pháp và Tăng, lập thành các Ðạo mà phục hồi các con hiệp
một cùng Thầy,"
Nhiều người mê chấp cho rằng, chỉ có Phật là lớn, còn Thượng Ðế là Ông Trời
thì nhỏ hơn Phật. Họ dẫn chứng bằng Truyện Tây Du, khi Tề Thiên Ðại Thánh loạn
Thiên Cung, Thượng Ðế cũng phải thua chạy, phải cầu cứu Phật Tổ. Phật Tổ qua mới
bắt được Tề Thiên, đem đè dưới Ngũ Hành Sơn.
Ðầu truyện thì nói Tề Thiên tài giỏi như thế, song về sau thì Tề Thiên rất
dở, đánh không lại nhiều con yêu, phải đi cầu cứu thầy của chúng xuống bắt về.
Xét như thế để thấy rằng Truyện Tây Du trước sau không thống nhứt, không đáng
tin.
Mặt khác, chúng ta thử hỏi: Phật Tổ do đâu mà có? Trả lời: Do Thái tử Sĩ Ðạt
Ta đi tu thành Phật. Thái tử Sĩ Ðạt Ta chỉ là một người nơi thế gian. Thể xác của
Thái Tử do vua cha và hoàng hậu, mẹ của Thái tử sanh ra, nhưng Linh hồn và Chơn
Thần của Thái tử do đâu mà có?
Chúng ta biết rằng, tất cả đều do Thượng Ðế sanh ra. Ðó là Ðấng Ðại Từ Phụ
của toàn cả chúng sanh. Dù con người có tu thành Phật thì Phật đó cũng vẫn là
con của Thượng Ðế, mà con thì không thể lớn hơn cha.
Ðây là một Chơn lý không thể chối cãi được. Nó có tính cách khoa học hợp
lý, chớ không phải do mê tín đặt ra.
25. Trạm tịch chơn đạo.
26. Khôi mịch tôn nghiêm.
湛 寂 眞 道
恢 漠 尊 嚴
GIẢI NGHĨA
Câu 25: "Trạm tịch chơn đạo."
Trạm: Nước sâu, sâu dày. Tịch: Yên lặng. Trạm tịch: Sâu dày và yên lặng.
Chơn: Thật, thường nói Chơn thật.
Ðạo: Nguyên lý đầu tiên tạo thành CKVT và vạn vật.
(Xem giải nghĩa chi tiết chữ Ðạo trong Kinh Tiên giáo). Ở đây, chữ Ðạo có
nghĩa là nền Ðại Ðạo của Ðức Chí Tôn.
C.25: "Nền Ðại Ðạo của Ðức Chí
Tôn chơn thật, sâu dày và yên lặng."
Câu 26: "Khôi mịch tôn nghiêm."
Khôi: To lớn. Mịch: còn đọc là Mạc, nghĩa là yên lặng. Tôn: Ðáng kính.
Nghiêm: Vẻ oai nghi đáng nể sợ.
C.26: "Nền Ðại Ðạo của Ðức Chí
Tôn to lớn, lặng lẽ, đáng kính, oai nghiêm."
Nền Ðại Ðạo của Ðức Chí Tôn mở ra bao gồm các Giáo lý của Tam giáo và Ngũ
Chi, nên nó là một nền Ðại Ðạo chơn chánh, vĩ đại, sâu xa, cao quí, tôn nghiêm,
và huyền diệu vô cùng. Có được như vậy mới độ được 92 ức nguyên nhân còn đang bị
đọa lạc nơi cõi trần, đồng thời tận độ toàn cả chúng sanh, trong thời kỳ Mạt Kiếp
Hạ Nguơn, để chuyển qua thời kỳ Thượng Nguơn Thánh đức.
27. "Biến hóa vô cùng."
28. "Lũ truyền bửu kinh dĩ giác
thế."
變 化 無 窮
屢 傳 寶 經 以 覺 世
GIẢI NGHĨA
Câu 27: "Biến
hóa vô cùng."
Biến hóa: Thay đổi thành cái khác, hay đổi sang trạng thái khác, hình thức
khác. Vô cùng: Không có chỗ cuối cùng, không giới hạn.
C.27: "Biến hóa không cùng tận."
Câu 28: "Lũ truyền bửu kinh dĩ
giác thế."
Lũ: Nhiều lần. Lũ truyền: Nhiều lần truyền ra khắp nơi. Bửu: còn đọc là Bảo,
nghĩa là quí báu. Kinh: Kinh sách. Bửu kinh: Kinh sách quí báu. Dĩ: Ðể mà, dùng
để.
Giác: Tỉnh ra mà biết rõ, trái với Mê. Giác và Mê, tỷ như người thức với kẻ
ngủ, thức là Giác, ngủ là Mê. Giác là Phật, Mê là chúng sanh. Thế: Ðời, người đời.
Giác thế: Giác ngộ người đời, làm cho người đời tỉnh ra mà biết rõ, đâu là tạm
bợ, đâu là vĩnh cửu, đâu là thật, đâu là giả, vv...
C.28: "Nhiều lần truyền bá kinh
sách quí báu để giác ngộ người đời."
Từ xưa đến nay, Ðức Chí Tôn đã nhiều lần cho các Ðấng Phật Tiên giáng trần
mở Ðạo cứu đời: Ðức Phật Thích Ca mở Phật giáo ở Ấn Ðộ, Ðức Chúa Jésus mở Thánh
giáo ở nước Do Thái; Ðức Lão Tử, Ðức Khổng Tử mở Tiên giáo và Nho giáo tại
Trung Hoa, vv... Các Ðấng Giáo chủ ấy đã thuyết giảng biết bao giáo lý cao
siêu, ghi lại thành kinh sách quí báu, truyền bá trong dân chúng, hầu thức tỉnh
người đời bỏ mê tìm giác, lo việc tu hành mà trở về ngôi xưa vị cũ.
29. "Linh oai mạc trắc."
30. "Thường thi Thần giáo dĩ lợi
sanh."
靈 威 莫 測
常 施 神 敎 以 利 生
GIẢI NGHĨA
Câu 29: "Linh oai mạc trắc."
Linh: Thiêng liêng. Oai: Cái vẻ trang nghiêm khiến người khác phải nể sợ. Mạc:
Không. Trắc: Ðo lường. Mạc trắc là không thể đo lường để biết được.
C.29: "Cái oai quyền thiêng
liêng của Ðức Chí Tôn không thể đo lường để biết hết được."
Người thời nay, nơi các nước văn minh tối tân Âu Mỹ, Nhựt, đã chế tạo được
máy bay, tàu lặn, hỏa tiển, phi thuyền, năng lượng nguyên tử, người máy, vv...
tưởng như vậy là giỏi lắm, có thể cướp được quyền Tạo Hóa.
Chúng ta phải nói rằng, họ hoàn toàn sai lầm trong tư tưởng, vì họ chưa biết
rõ cái oai quyền thiêng liêng của Thượng Ðế. Họ không thể tạo ra được sự sống,
họ chỉ tạo ra được sự chết mà thôi. Chừng nào mà các nhà khoa học chế tạo được
một người máy Nam và một người máy Nữ, cho phối hợp với nhau như vợ chồng, đẻ
ra được một người máy con, thì họ mới gọi là cướp được quyền của Tạo Hóa.
Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế là Ðấng duy nhứt tạo ra được sự sống và
làm chủ sự sống đó.
Ngài là chủ tể của 2 nguyên lý Âm Dương và Ngũ Hành (Kim, Thủy, Mộc, Hỏa,
Thổ). Ðức Chí Tôn chỉ dùng cái oai linh của Ngài để xoay chuyển Ngũ Hành cho đảo
lộn một chút thôi, thì chúng ta tưởng tượng sẽ xảy ra như thế nào?
- Súng đạn không có lửa nẹt ra đúng lúc để nổ.
- Tàu bè, xe cộ, không có xăng lửa (Thủy Hỏa) điều hòa thì máy móc làm sao
chuyển động được.
- Ðiện tử, điện trường, từ trường bị xáo trộn, làm sao tạo ra được các phản
ứng vật chất.
- Ngũ tạng, Lục phủ trong thân thể con người sẽ rối loạn, làm cho con người
mê loạn và chết thảm.
Vậy thì, con người dù khôn ngoan đến đâu cũng không thể bằng Trời, mà cũng
không thể chống lại Trời.
Người khôn ngoan là người biết nương theo các định luật của Tạo Hóa để mau tiến
hóa.
Câu 30: "Thường thi Thần giáo dĩ
lợi sanh."
Thường: Luôn luôn, hằng có. Thi: Sắp đặt mà làm ra, thi hành. Giáo: Dạy.
Dĩ: Ðể mà, dùng để. Lợi: Có ích. Sanh: Sống, ý nói nhơn sanh, chúng sanh.
Thần: Có 2 nghĩa tùy theo trường hợp: Thần là thiêng liêng; Thần là một
trong Tam Bửu Tinh, Khí, Thần, nên Thần là Chơn linh, Linh hồn.
Do đó, Câu kinh trên có thể được giải thích bằng 2 cách tùy theo nghĩa của
chữ Thần:
1 . Thần là thiêng liêng: Thần giáo là lời giáo huấn
thiêng liêng của chư Tiên, Phật. Thần giáo đồng nghĩa với Thánh giáo.
C.30: "Thường đặt ra các lời
giáo huấn thiêng liêng để làm ích lợi cho nhơn sanh."
2. Thần là Chơn linh. Thi Thần là sắp đặt cho các Chơn linh.
C.30: "Thường sắp đặt cho các
Chơn linh giáng trần mở đạo giáo hóa nhơn sanh để làm lợi ích cho nhơn sanh."
Cách giải thích nầy phù hợp với Câu kinh 28: Lũ truyền bửu kinh dĩ giác thế:
Nhiều lần truyền bá kinh sách quí báu để giác ngộ người đời.
Ðức Chí Tôn đã nhiều phen sắp đặt cho các Chơn linh cao trọng giáng trần lập
Ðạo, giáo hóa nhơn sanh tu hành, tức là làm lợi ích cho nhơn sanh. Nhưng, nhơn
sanh u mê tăm tối, lại bị Quỉ Vương xúi giục, cám dỗ, nên lần lần các mối Ðạo
quí báu bị sửa cải Chơn truyền, qui phàm, mất hết giá trị.
31. Hồng oai, hồng từ.
32. Vô cực, vô thượng.
洪 威 洪 慈
無 極 無 上
GIẢI NGHĨA
Câu 31: "Hồng
oai, hồng từ."
Hồng: To lớn, rộng lớn. Oai: Vẻ trang nghiêm đáng nể sợ. Thường nói: Oai
quyền. Từ: Lòng thương yêu của người trên đối với kẻ dưới, lòng thương yêu
chúng sanh.
1) Hồng oai: Cái oai quyền to lớn do lòng thương yêu mà có, chớ không phải
do sức mạnh vũ lực đè nén người, nhờ đó mà làm cho người ta phải tâm phục.
Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo có kể lại một câu chuyện để chúng ta hiểu cái Hồng
Oai của Ðức Chí Tôn:
"Bần đạo đã đọc sự
tích đó hồi còn đi học. Có 2 anh em bạn học ở chung một trường với nhau. Tới kỳ
thi Tú Tài thì người bạn thi rớt, về thất chí đến nước muốn hủy mình, mà may có
một điều, người bạn tâm tình kia đem cả sự đau khổ tâm hồn mình tỏ cho bạn
mình. Người bạn an ủi khuyên lơn chi cũng không được hết.
Hôm nọ, người thất chí đó
nhứt định đi ra đón xe lửa đặng nhào đầu vô xe lửa chết, mà không dè là người bạn
của mình đi theo bén gót, đi theo xa xa, giữ gìn mà không hay. Ông ta mới vừa
đi lại gần xe lửa, người bạn chạy theo níu, năn nỉ giữ lại đó. Người kia vùng vẫy,
đổ quạu lên nói: "Mầy tưởng đâu mầy thương tao mà mầy kéo dài sự đau khổ của tao,
chớ không phải mầy thương tao."
Bây giờ chẳng thế gì can gián được, nên phải dùng chiến lược khác, phát gây
lộn, nói: "Cái thân thể mầy đã dở, mầy
ngu, mầy thi rớt, rồi mầy muốn hủy mình. Mầy mà có chết đi nữa, linh hồn mầy xuống
Ðịa ngục là thằng tù ngu, dầu có được Ðức Chí Tôn tức nhiên Ðức Chúa Trời ban
cho mầy thành Ông Thánh đi nữa, mầy cũng là Ông Thánh ngu."
Mắng, 2 đàng đánh lộn, ôm
vật với nhau, đánh thẳng tay, mà cái Ông kia, mình làm mưu không nỡ đánh lắm,
đánh sợ đau bạn. Còn Ông bạn kia đổ quạu thật, đánh thôi mình mẩy sưng tùm lum
túa lua, rồi đem vô nhà thương nằm. Vô đó, người bạn đó mới nói: Mầy ơi! Tao cốt
yếu cố tâm đặng cứu mầy, mầy làm tao thân thể như thế nầy, thôi hết sức nói.
Tới chừng người kia nằm kế
bên mới động lòng khóc mướt, rồi ôm người bạn khóc mướt đó vậy. Cứu được, từ đó
anh ta theo mãi, tới thi đậu ra trường thôi.
Ðó, Hồng Oai đó. Bây giờ mình mới nghĩ coi Hồng
Oai mà làm được như vậy cũng nên làm chớ."
Cái oai quyền của một người Cha đối với đàn con có được là do đâu? Có phải
là do lòng thương yêu của Cha đối với Con, và của Con đối với Cha. Chính 2 sự
thương yêu tương liên đó tạo ra oai quyền của Cha đối với Con.
Còn Hồng Oai của Ðức Chí Tôn là đối với toàn thể vạn linh trong CKVT, là
con cái thương yêu của Ngài. Ðức thương yêu của Ðức Chí Tôn vô cùng tận thì Hồng
Oai của Ðức Chí Tôn cũng vô cùng tận.
2) Hồng từ: Lòng thương yêu to lớn, không vì lợi ích riêng cho mình mà vì lợi
ích cho xã hội nhơn quần. Ðó là lòng thương yêu cao cả, vượt trên ích kỷ nhỏ
nhen để đem lại lợi ích chung.
Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo giảng về Hồng từ của Ðức Chí Tôn như sau:
"Hồng từ, ta thử kiếm
hiểu, phải có cái tinh thần Ðại từ bi, Ðại bác ái, nghĩa là mọi điều nó phải do
nơi Luật Tương đối hiện tượng, bây giờ là cái tình đời thì ta phải khoan hồng
dung thứ. Muốn làm cho không lầm, phải có tinh thần lịch lãm và khoan dung."
Nắm được tánh đức Hồng từ của Ðức Chí Tôn, lịch lãm, ta phải biết mình biết
người.
Một cái gương lịch lãm từ cổ chí kim, chưa hề có một lần thứ nhì nữa là Vua
Nghiêu, có 9 người con: 7 trai, 2 gái, mà đi tìm Ông Thuấn đặng truyền ngôi vua
lại. Còn mấy người con trai kia, ta thử nghĩ thế nào đã? Khi tìm đặng Ông Thuấn,
đem 2 người con gái gả hết, Nga Hoàng và Nữ Anh (gả hết cho Ông Thuấn), mà ta
thử nghĩ Ông Thuấn là gì? Một tên ít học, cày ruộng, cha là Cổ Tẩu, em là Tượng
ghét đáo để, nhứt là bà kế mẫu. Ngài (Ông Thuấn) bị hiếp bức. Ta thử nghĩ vì lẽ
gì Vua Nghiêu chọn Ông Thuấn làm vua kế nghiệp cho Ngài (vua Nghiêu), chỉ vì
Ông Thuấn là người hiếu mà thôi.
Với cái tánh lịch lãm, vua Nghiêu cho tánh đức hiếu nghĩa là đủ hết rồi. Hễ
hiếu cùng cha mẹ, nghĩa cùng anh em, 2 tánh đức đó đủ cả tinh thần đặng trị
thiên hạ. Ngài đoán rồi chọn Ông Thuấn. Ngài không lầm, quả nhiên Ông Thuấn đã
thành một vị Hoàng Ðế, từ cổ chí kim, chưa hề có một người thứ nhì nữa.
Ấy là lịch lãm, nhờ cái tinh thần lịch lãm của vua Nghiêu, mà cả sự hèn hạ
của Ông Thuấn kia nó mất hết. Ông chỉ lấy có Hiếu với Nghĩa mà thôi. Ấy là cái
gương lịch lãm khoan dung, mà cái cử chỉ của vua Nghiêu truyền ngôi cho Ông Thuấn
là một cái Hồng Từ mà tự thử tới giờ, chưa có ai làm một lần thứ nhì nữa."
Qua lời thuyết đạo của Ðức Phạm Hộ Pháp, chúng ta thấy vua Nghiêu cũng
thương con lắm, nhưng Ngài lại yêu dân hơn yêu con, vì Ngài thấy rõ, con của
Ngài không thể làm cho dân hạnh phúc bằng Ông Thuấn, nên Ngài dẹp bỏ lòng
thương yêu ích kỷ, truyền ngôi cho Ông Thuấn. Do đó, Ðức Hộ Pháp mới cho vua
Nghiêu có Hồng Từ vậy.
Chúng ta xét trong CKVT nầy, có ai oai quyền hơn Ðức Chí Tôn không? Ðó là
cái oai quyền của một ông chủ sáng lập ra cái gia tài đồ sộ là CKVT và vạn vật.
Ðó là cái oai quyền của một ông vua đối với các bề tôi là chư Thần Thánh, Tiên,
Phật.
Ðức Chí Tôn có sử dụng cái oai quyền to lớn ấy để trấn áp ai không? Ðức Chí
Tôn chỉ dùng tình thương yêu bao la mà ban phát cho tất cả con cái của Ngài, để
mong cải hóa họ trở về nẻo chánh đường ngay; cả những đứa con hung bạo, ngỗ nghịch,
phản Ngài mà Ngài cũng vẫn thương yêu, cố đem tình thương đến những đứa con nầy
để mong chúng hồi tâm. Ðấng nào muốn trừng phạt những đứa con phản nghịch ấy
cũng đều bị Ðức Chí Tôn ngăn cản đến phút chót, làm cho các Ðấng ấy phải lên tiếng
kêu nài.
Câu 32: "Vô
cực, vô thượng."
Vô: Không. Cực: Cái đầu cùng. Thượng: Trên.
Vô cực là không có gì ở ngoài cái đầu cùng, ý nói tột bực rồi. Vô thượng là
không có gì ở trên hơn nữa, ý nói cao hơn hết, cao hơn tất cả.
C.32: "Ðấng Ngọc Hoàng Thượng Ðế
là Ðấng vô cực vô thượng. Nghĩa là: Trong CKVT nầy, không ai lớn hơn hay cao
hơn Ðức Chí Tôn."
33. "Ðại Thánh, Ðại Nguyện,
Ðại Tạo, Ðại Bi."
大 聖 大 願
大 造 大 悲
GIẢI NGHĨA
Câu 33: "Ðại
Thánh, Ðại Nguyện, Ðại Tạo, Ðại Bi."
Ðại: Lớn. Ðại Thánh: Ðức Thánh lớn. Nguyện: Mong muốn và quyết tâm thực hiện.
Nguyện cũng là lời thề hứa chắc đối với bản thân mình để mình cố gắng thực hiện
cho kỳ được mới nghe, nên thường nói là Thệ nguyện.
Ðại nguyện: Lời nguyện lớn của các Ðấng từ Bồ Tát đổ lên, muốn cứu độ tất cả
chúng sanh. Lời nguyện đó phổ cập đến toàn cả chúng sanh, nên gọi là Ðại nguyện.
Tạo: Dựng nên, làm ra. Ðại tạo: là Ðấng Tạo Hóa lớn mà công trình của Ngài
là toàn cả CKVT và vạn vật.
Bi : Lòng trắc ẩn thương cảm các cảnh khổ não của chúng sanh, lúc nào cũng
muốn cứu vớt chúng sanh khỏi phiền não và tai họa. Ðại bi: Ðức bi lớn.
Lời nói của Ðức Chí Tôn được gọi là Thánh ngôn, lời dạy của Ðức Chí Tôn gọi
là Thánh giáo, ý kiến của Ðức Chí Tôn được gọi là Thánh ý. Ðức Chí Tôn thường
dùng chữ Thánh để chỉ về mình, biểu thị một tánh đức khiêm tốn tối đa, để làm
gương cho nhơn sanh noi theo. Cho nên, từ ngữ Ðại Thánh là chỉ Ðức Chí Tôn.
Ðức Chí Tôn là Ðấng Ðại Từ Bi, thấy trong buổi Hạ Nguơn Mạt kiếp, chúng
sanh mê muội đi vào con đường hắc ám, tội lỗi chồng chất, nên Ðức Chí Tôn mở
ÐÐTKPÐ, ban cho nhơn loại một cuộc Ðại Ân Xá cuối cùng, cứu vớt chúng sanh lần
chót để chuyển qua Thượng Nguơn Thánh đức.
"Mỗi phen Thầy đến lập
Ðạo là phải cam đoan và lãnh các con, chẳng khác nào kẻ nghèo lãnh nợ. Các con
làm tội lỗi bao nhiêu Thầy đều lãnh hết." (TNHT. I. 108)
Lời nói đó được xem là Ðại nguyện của Ðức Chí Tôn khi lập ÐÐTKPÐ (tức Ðạo
Cao Ðài).
34. Huyền Khung Cao Thượng Ðế Ngọc
Hoàng
35. Tích phước hựu tội,
36. Ðại Thiên Tôn.
玄 穹 高 上 帝 玉 皇
錫 福 宥 罪
大 天 尊
Lạy 3 lạy, mỗi lạy 4 gật, mỗi gật niệm Câu Chú của Thầy:
Nam mô Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát
南 無 高 臺 仙 翁 大 菩 薩 摩 訶 薩
GIẢI NGHĨA
Câu 34: "Huyền
Khung Cao Thượng Ðế Ngọc Hoàng"
Huyền: Sâu xa kín đáo, huyền diệu. Khung: To lớn cao rộng như vòm trời. Cao: Ở trên cao. Thượng Ðế Ngọc Hoàng: tức là Ðấng Ngọc
Hoàng Thượng Ðế.
C.34: "Ðấng
Ngọc Hoàng Thượng Ðế huyền diệu, to lớn, cao tột."
Ðấng ấy là Chúa tể CKVT, là vua của Nhựt, Nguyệt, Tinh
và Thời gian, là chủ của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật,
là Ðại Từ Phụ của toàn cả chúng sanh, và hiện nay,
trong thời ÐÐTKPÐ, Ngài được gọi là Ðức Chí Tôn, Ðấng Cao Ðài.
Sách "Tứ Thời
Nhựt Tụng Kinh" của nhị vị Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt và Ngọc
Lịch Nguyệt, giải câu kinh nầy:
"Huyền Khung Cao Thượng
Ðế: chữ Huyền là sắc đen, màu huyền. Sách Thiên Tự Văn: Thiên huyền Ðịa huỳnh
là Trời đen Ðất vàng. Còn chữ Khung là cao. Có câu: Thiên hình khung long kỳ sắc
thương thương, nên chữ Huyền Khung là xưng gọi vị Thượng Thiên cao vọi sắc xanh
đen."
Câu 35: "Tích
phước hựu tội."
Tích: Cho, ban cho. Với nghĩa nầy còn đọc là Tứ. Phước: Ðiều tốt lành. Tích
phước là ban cho điều tốt lành.
Hựu: Rộng lòng tha thứ. Tội: Tội lỗi, việc
làm trái với pháp luật và đạo đức. Hựu tội: Tha tội.
C.35: "Ðức
Chí Tôn ban phước và tha tội cho chúng sanh" (miễn là biết ăn năn sám hối tội tình, cải tà qui chánh).
Câu 36: "Ðại
Thiên Tôn."
Ðại: Lớn. Thiên: Trời, cõi Trời. Tôn: Kính trọng.
C.36: "Ðấng
lớn nhứt, đáng tôn kính nhứt nơi cõi Trời gọi là Ðại Thiên Tôn."
Chỉ có Ðức Ngọc
Hoàng Thượng Ðế mới được gọi là Ðại Thiên Tôn; còn các Ðấng
khác đều nhỏ hơn Ðức Chí Tôn nên chỉ được gọi là Thiên Tôn (không có chữ Ðại
phía trước). Thí dụ như:
Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.
Nhiên Ðăng Cổ Phật Vô Vi Xiển Giáo Thiên Tôn.
Thái Thượng ÐạoTổ Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn.
Câu Chú của Thầy: đã được giải chi tiết nơi phần cuối của bài Kinh Niệm
Hương.
[ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ] [ 8 ] [ 9 ] [ 10 ] [ 11 ] [ 12 ] [ 13 ] [ 14 ] [ 15 ] [ 16 ] [ 17 ] [ 18 ] [ 19 ] [ 20 ] [ 21 ] [ 22 ] [ 23 ] [ 24 ] [ 25 ] [ 26 ] [ 27 ] [ 28 ] [ 29 ] [ 30 ] [ 31 ] [ 32 ] [ 33 ] [ 34 ] [ 35 ] [ 36 ] [ 37 ] [ 38 ] [ 39 ] [ 40 ] [ 41 ] [ 42 ] [ 43 ] [ 44 ] [ 45 ] [ 46 ] [ 47 ] [ 48 ] [ 49 ] [ 50 ] [ 51 ] [ 52 ] [ 53 ] [ 54 ] [ 55 ] [ 56 ] [ 57 ] [ 58 ] [ 59 ] [ 60 ] [ 61 ] [ 62 ] [ 63 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét