KHAI KINH (Giọng Nam ai)
1." Biển trần khổ vơi vơi trời nước,
2. Ánh thái dương giọi trước phương đông.
3. Tổ Sư Thái Thượng Ðức Ông,
4.
Ra tay dẫn độ dày công giúp đời.
5.
Trong Tam Giáo có lời khuyến dạy,
6.
Gốc bởi lòng làm phải làm lành.
7.
Trung Dung Khổng Thánh chỉ rành,
8.
Từ bi Phật dặn lòng thành lòng nhơn.
9.
Phép Tiên đạo tu chơn dưỡng tánh,
10. Một cội sanh ba nhánh in nhau.
11. Làm người rõ thấu lý sâu,
12. Sửa lòng trong sạch tụng cầu Thánh Kinh."
(Cúi đầu)
GIẢI NGHĨA
Phần I :
Nguồn gốc bài kinh
Phần II :
Giải nghĩa bài Khai Kinh
Phần I: Nguồn gốc
bài kinh:
Bài Khai Kinh có nguồn gốc là bài
Kinh chữ Hán, tựa là KHAI KINH KỆ trong quyển Kinh Huyền Môn Nhựt Tụng từ bên
Tàu truyền sang nước ta.
Vào năm Ất Sửu (1925), Ðức Lữ Tổ
giáng cơ tại Chi Minh Lý, diễn nôm bài Khai Kinh Kệ nói trên, ban cho Chi nầy
làm bài Khai Kinh để tụng trước khi tụng Kinh Sám Hối.
Ðây là một trong 6 bài Kinh mà Hội
Thánh vâng lịnh Ðức Chí Tôn thỉnh từ Chi Minh Lý về làm Kinh ÐÐTKPÐ. (Xem trở lại
Phần II: Nguồn gốc bài Niệm Hương trong phần Giải Nghĩa bài Niệm Hương).
Sau đây, xin
chép lại bài Khai Kinh Kệ:
KHAI KINH
KỆ 開 經 偈
Trần hải mang
mang thủy, nhựt đông, (塵 海 茫 茫 水 日 東)
Vãn hồi toàn
trượng Chủ Nhơn Công. (挽 回 全 仗 主 人 公)
Yếu tri Tam
giáo tâm nguyên hiệp, (要 知 三 敎 心 源 合)
Trung thứ, Từ
bi, Cảm ứng, đồng. (忠 恕 慈 悲 感 應 同)
DỊCH NGHĨA:
Bài kệ mở
đầu các bài kinh.
- Biển trần
bát ngát mênh mông nước, mặt trời ở phương Ðông,
- Vãn hồi
được là hoàn toàn nhờ vào Ðấng Thái Thượng Ðạo Tổ.
- Những
điều trọng yếu cần biết của Tam giáo là do cái Tâm làm gốc cho sự hòa hợp.
- Ðức Khổng
Tử dạy Trung Thứ, Ðức Phật dạy Từ Bi, Ðức Thái Thượng dạy Cảm Ứng, đều đồng như
nhau.
Bài Khai Kinh
Kệ gồm 4 câu thơ chữ Hán được Ðức Lữ Tổ diễn nôm thoát ý một cách tuyệt diệu
theo thể thơ song thất lục bát gồm 9 câu: Từ câu 1 đến câu 9. Ðức Lữ Tổ viết
thêm 3 câu chót, dường như có ý để về sau dùng bài nầy làm Khai Kinh cho ÐÐTKPÐ
với tôn chỉ Tam giáo qui nguyên:
10. Một cội sanh ba nhánh in nhau,
11. Làm người rõ thấu lý sâu,
12. Sửa lòng trong sạch tụng cầu
Thánh Kinh.
(Lữ Tổ là Lữ Ðồng Tân, đạo hiệu là
Lữ Thuần Dương, một vị Ðại Tiên trong Bát Tiên, thường giáng cơ ban cho kinh
điển).
Phần
II : Giải nghĩa bài Khai Kinh
Khai Kinh: Bài Kinh để tụng mở đầu trước
khi tụng các bài Kinh khác như: Kinh Ngọc Hoàng Thượng Ðế, Kinh Phật giáo, Kinh
Tiên giáo, Kinh Nho giáo, Kinh Phật Mẫu.
Câu 1: "Biển trần khổ
vơi vơi trời nước."
Biển trần khổ: Những nỗi đau khổ của con
người nơi cõi trần nhiều như biển. Ðức Phật Thích Ca nói, con người có
Tứ khổ: Sanh, Lão, Bệnh, Tử. Ngoài ra con người còn chịu biết bao khổ sở trong
việc đua chen danh lợi, vật lộn với cuộc sống. Do đó, Ðức Phật nói, nước mắt
của chúng sanh nhiều hơn nước 4 biển. Vơi vơi: Bát ngát
mênh mông.
C.1: Những
nỗi đau khổ của con người nơi cõi trần thì nhiều như nước biển mênh mông, chỉ
thấy trời và nước.
Câu 2: "Ánh thái dương giọi trước phương đông."
Thái
dương: Mặt trời. Ánh Thái dương: Ánh sáng
mặt trời, nguồn sống của nhơn loại và sinh vật. Giọi: Chiếu,
rọi.
C.2: Ánh
sáng mặt trời chiếu ra từ phương Ðông.
Từ phương
Ðông, mặt trời từ từ lố dạng, phá tan màn đêm đen tối đang bao phủ địa cầu, vạn
vật thức tỉnh, bừng lên sự sống. Ngụ ý là: ÐÐTKPÐ mở ra tại một nước ở phía
đông, ý nói nước Việt Nam, để cứu vớt nhơn loại thoát qua biển khổ.
Câu 3: "Tổ
Sư Thái Thượng Ðức Ông."
Tổ Sư: Người
sáng lập ra một tôn giáo và làm thầy trong tôn giáo đó. Thái Thượng
Ðức Ông: Ðức Thái Thượng Ðạo Quân, Giáo chủ Tiên giáo.
C.3: Ðức
Thái Thượng Ðạo Quân sáng lập Ðạo Tiên và làm Tổ Sư của Ðạo Tiên.
Câu 4: "Ra tay dẫn độ dày công giúp đời."
Ra tay: Ðem
sức ra làm việc. Dẫn độ: Dẫn dắt và cứu giúp. Dày
công: Có nhiều công lớn.
C.4: Rất
dày công trong việc dẫn dắt và cứu giúp người đời.
Câu 5: "Trong
Tam giáo có lời khuyến dạy."
Tam
giáo: 3 tôn giáo lớn ở Á Ðông: Phật giáo (Thích giáo), Lão giáo
(Ðạo giáo), Nho giáo (Khổng giáo). Thường nói Tam giáo là: Phật, Lão, Nho; hay Nho, Thích, Ðạo.
C.5: Trong giáo lý của Ba nền tôn giáo lớn
ở Á Ðông có nhiều lời khuyên răn dạy dỗ.
Câu 6: "Gốc bởi lòng làm phải làm lành."
Gốc bởi lòng: Cái căn bản là do Tâm của mỗi
người. Ba nền tôn giáo lớn Nho Thích Ðạo đều lấy TÂM làm gốc:
Phật giáo dạy
Minh Tâm kiến Tánh,
Tiên giáo dạy
Tu Tâm luyện Tánh,
Nho giáo dạy
Tồn Tâm dưỡng Tánh.
Làm
phải: Làm điều hợp với Luân thường Ðạo lý.
Làm
lành: Làm điều hợp với Ðức háo sanh của Thượng Ðế và hợp với sự
Tiến hóa, tức là xả thân giúp đời giúp người.
C.6: Tam
giáo dạy lấy Tâm làm gốc, dạy làm điều phải, tránh điều quấy, dạy làm điều
thiện, tránh điều ác.
Câu 7: "Trung Dung Khổng Thánh chỉ rành."
Trung
Dung: Một học thuyết rất cao siêu của Nho giáo, do Ông Tử Tư (cháu
nội của Ðức Khổng Tử, học trò của Tăng Tử) gom góp các lời dạy của Ðức Khổng Tử
mà lập thành. Trung là không
thiên lệch, là đường chánh trong thiên hạ; Dung là không thay đổi, là lẽ nhứt
định trong thiên hạ.
Mọi việc ở đời đều có cái mức quân
bình, đích đáng. Chưa đến cái mức ấy thì việc làm phải sai; quá cái mức ấy thì
việc làm cũng không đúng; mức quân bình ấy cũng gọi là Trung. Ở đời, việc nhỏ
như ăn uống hằng ngày, việc lớn như kinh luân thiên hạ, đều có cái lý bình
thường chi phối tất cả, lý ấy thiết thực, không quái lạ mà cũng thay đổi đi
được, ấy cũng là Dung. Vậy, Trung Dung là cái mức quân bình thích đáng trong
tất cả mọi sự vật và con người, cũng như trong tất cả tác động của Trời Ðất.
Trong bài Khai Kinh Kệ (Hán văn) thì
nói là Trung Thứ. Trung là hết lòng mình, Thứ là suy lòng mình ra lòng người.
Sách Trung Dung có nói: Trung Thứ vi Ðạo bất viễn, thi chư kỷ nhi bất nguyện,
diệc vật thi ư nhân. Nghĩa là: Trung và Thứ thì cách Ðạo không xa, hễ điều gì
làm cho mình mà mình không muốn thì cũng đừng làm cho người.
Khổng Thánh: Ðức Thánh Khổng Tử, Giáo chủ
Nho giáo.
C.7: Ðức Thánh Khổng tử dạy về đạo Trung
Dung rất rành rẽ.
Câu 8: "Từ bi Phật
dặn lòng thành lòng nhơn."
Từ bi: Từ là lòng thương yêu chúng
sanh, bi là lòng trắc ẩn thương cảm các cảnh khổ não của chúng sanh và muốn
giúp chúng sanh thoát khổ. Từ bi là hạnh đặc trưng của Phật. Dặn:Căn
dặn, dặn dò. Lòng thành: Lòng thành thật. Lòng
nhơn: Lòng thương người mến vật, thương khắp chúng sanh.
C.8: Ðức
Phật căn dặn phải có lòng từ bi, lòng thành thật, và lòng thương yêu khắp chúng
sanh.
Câu 9: "Phép Tiên đạo tu chơn dưỡng tánh."
Phép
Tiên đạo: Phương pháp tu luyện của đạo Tiên, hay nói khác hơn là
Tâm pháp tu luyện của Tiên giáo.
Tu chơn: Tu
là sửa đổi cho được tốt đẹp hơn, chơn là thật. Tu chơn là lối tu quyết tâm sửa
đổi con người của mình mỗi lúc một thêm tốt đẹp, thiện lương, chơn chánh, không
cần ăn ngon mặc đẹp, chức tước quyền hành hay mão cao áo rộng, chỉ cốt đạt được
mục đích quan trọng là giải thoát khỏi luân hồi. Ðây chính là con đường tu thứ
ba của Ðạo Cao Ðài.
"Cách thứ
ba là cách Tu chơn hay là cách Tịnh luyện cũng thế. Những người đi trong Cửu
phẩm Thần Tiên (nơi Cửu Trùng Ðài) hay đi trong Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng
(nơi CQPT), khi mình nhận thấy là đã Lập Ðức, Lập Công, Lập Ngôn rồi, hay là đã
thọ khổ và thắng khổ rồi mà còn sức nữa thì vào Nhà Tịnh để được Tu chơn. Nơi
đây, các vị đó sẽ học phương pháp luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hóa Thần, tức
là Tinh Khí Thần hiệp nhứt, là huờn Hư đó vậy." (TÐ. ÐPHP về Con đường
TLHS, trang 5).
Dưỡng
tánh: Dưỡng là nuôi nấng, Tánh là bản thể của Tâm, bên trong là
Tâm, thể hiện ra ngoài là Tánh. Cho nên, Tâm và Tánh, tuy 2 danh từ khác nhau,
nhưng sự tác động vẫn một. Cái bổn Tánh của con người do Trời ban cho vốn lành
(Nhơn chi sơ,
Tánh bổn thiện), nhưng vì thâm nhiễm mùi trần nên sanh lòng ham muốn, làm cho
Tánh biến đổi, trở nên không lành. Con người cần nuôi dưỡng cái Tánh của mình
cho được lành như thuở mới sanh ra, rèn luyện trau giồi cho càng ngày càng trở
nên linh thiêng sáng suốt thì tự nhiên giao tiếp được với Trời, tức là Nhơn
Tánh được hiệp cùng Thiên Tánh.
C.9: Cái
Tâm pháp tu luyện của đạo Tiên dạy về Tu chơn và Dưỡng Tánh.
Câu 10: "Một cội sanh
ba nhánh in nhau."
Một cội: Một gốc, gốc đó là Thái Cực,
tức là Ðức Chí Tôn Thượng Ðế. Ba nhánh: 3 tôn giáo lớn,
tức là Tam giáo: Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo. In nhau: Giống
hệt nhau.
TNHT. I. 14: "Nhiên Ðăng Cổ
Phật thị Ngã, Thích Ca Mâu Ni thị Ngã, Thái Thượng Nguơn Thỉ thị Ngã, kim viết
CAO ÐÀI." (Nhiên Ðăng Cổ Phật là Ta, Thích Ca Mâu Ni là Ta, Thái Thượng
Nguơn Thỉ là Ta, nay gọi là Ðấng Cao Ðài.)
Qua lời Thánh
giáo trên của Ðức Chí Tôn, chúng ta nhận thấy rằng, mỗi khi Ðức Chí Tôn thấy
nhơn loại đi vào đường tà mị hắc ám thì Ngài mở lòng Ðại từ Ðại bi, sai các
Ðấng Phật Tiên giáng trần mở Ðạo giáo hóa nhơn sanh. Thời thái cổ (Nhứt Kỳ Phổ
Ðộ), Ðức Chí Tôn sai Ðức Phật Nhiên Ðăng mở Phật giáo; thời thượng cổ (Nhị Kỳ
Phổ Ðộ), Ðức Chí Tôn lại sai Ðức Phật Thích Ca mở Ðạo Phật ở Ấn Ðộ, Ðức Thái
Thượng mở Ðạo Tiên ở Trung Hoa, Ðức Khổng Tử mở Nho giáo cũng ở Trung Hoa, Ðức
Chúa Jésus mở Ðạo Thánh ở Do Thái. Các Ðấng ấy đều vâng lịnh Ðức Chí Tôn giáng
trần mở Ðạo cứu đời. Như vậy, tuy các Ðạo có giáo lý khác nhau vì nhơn sanh ở
mỗi vùng có trình độ tiến hóa khác nhau, nhưng cùng giống nhau ở mục đích là
dạy nhơn sanh tu hành, tiến hóa trên đường đạo đức chơn chánh, hầu đoạt vị cao
trọng nơi cõi thiêng liêng, thoát khỏi luân hồi.
Tam giáo từ
xưa vốn một nhà,
Người sau lầm tưởng vọng chia ba. (Ðức
Khổng Tử)
C.10: Tam
giáo đều có cùng một gốc mà ra, gốc đó là Ðức Chí Tôn, mà ngày nay thời TKPÐ
gọi là Ðấng Cao Ðài.
Câu 11: "Làm
người rõ thấu lý sâu."
Thấu: Thông
suốt. Rõ thấu: Biết rõ, biết một cách thông suốt. Lý
sâu: Cái lẽ sâu xa huyền diệu của Trời Ðất. Ðó là Chơn lý hằng hữu
bất biến của CKVT.
Con người là
loài Thượng đẳng chúng sanh, có Tánh linh hơn vạn vật, nên cần phải tìm tòi học
hỏi trong các kinh sách để biết rõ các lẽ cao siêu huyền diệu của Trời Ðất, thì
mới biết tùng theo Thiên lý mà trở về cùng Ðức Chí Tôn.
C.11: Làm
một con người nơi cõi trần cần phải tìm tòi học hỏi để biết rõ cái Chơn lý
huyền diệu của Trời Ðất.
Câu 12: "Sửa lòng trong sạch tụng cầu Thánh Kinh."
Sửa
lòng: chữ Hán là Tu Tâm, nghĩa là sửa đổi cái Tâm cho chơn chánh
tốt đẹp. Trong sạch: Trong thì được thanh nhẹ, sạch thì
không ô trược. Tâm trong sạch thì làn sóng tư tưởng mới thanh nhẹ, vượt lên
khỏi lớp không khí, đến với các Ðấng thiêng liêng. Tụng cầu: Tụng
kinh và cầu nguyện. Thánh Kinh: Các bài kinh do các Ðấng
Phật Tiên Thánh giáng cơ ban cho.
C.12: Cần
phải sửa đổi cái Tâm cho trong sạch để tụng kinh và cầu nguyện thì mới được sự
cảm ứng của các Ðấng thiêng liêng.
[ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ] [ 8 ] [ 9 ] [ 10 ] [ 11 ] [ 12 ] [ 13 ] [ 14 ] [ 15 ] [ 16 ] [ 17 ] [ 18 ] [ 19 ] [ 20 ] [ 21 ] [ 22 ] [ 23 ] [ 24 ] [ 25 ] [ 26 ] [ 27 ] [ 28 ] [ 29 ] [ 30 ] [ 31 ] [ 32 ] [ 33 ] [ 34 ] [ 35 ] [ 36 ] [ 37 ] [ 38 ] [ 39 ] [ 40 ] [ 41 ] [ 42 ] [ 43 ] [ 44 ] [ 45 ] [ 46 ] [ 47 ] [ 48 ] [ 49 ] [ 50 ] [ 51 ] [ 52 ] [ 53 ] [ 54 ] [ 55 ] [ 56 ] [ 57 ] [ 58 ] [ 59 ] [ 60 ] [ 61 ] [ 62 ] [ 63 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét